Bản án 81/2020/HS-PT ngày 29/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 81/2020/HS-PT NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 09 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2020/QĐXXPT-HS ngày 08 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Thị A, do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh và kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2020/HS-ST ngày 28/7/2020 của Toà án nhân dân huyện Trực Ninh.

- Bị cáo kháng cáo: Phạm Thị A, sinh năm 1998 tại Nam Định; Nơi ĐKHKTT: Xã P, huyện T, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Nam Định; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1973; Con bà Vũ Thị H, sinh năm 1980; Gia đình có 3 chị em, bị cáo là thứ nhất; Chồng Trịnh Xuân K, sinh năm 1993; Có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

- Bị hại:

Ông Trịnh Xuân T1, sinh năm 1966; Trú tại: Thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Nam Định.

Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1968; Trú tại: Thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Nam Định.

- Người làm chứng: Chị Lương Thị N, anh Trịnh Văn Kh, bà Vũ Thị H2.

Tại phiên toà có mặt bị cáo Phạm Thị A và bị hại ông Trịnh Xuân T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị A là con dâu và sống cùng nhà với bố mẹ chồng là ông Trịnh Xuân T1, bà Nguyễn Thị H1. Ông T1, bà H1 và anh Trịnh Xuân K (chồng Phạm Thị A) thường xuyên đi làm ăn tại tỉnh Cao Bằng. Vợ chồng ông T1 bà H1 tiết kiệm được số tiền 190 triệu đồng. Khoảng tháng 9/2019 ông bà cầm số tiền trên về nhà, chia làm hai phần một phần để trong túi áo khoác màu vàng của ông T1, một phần để trong áo thun màu đen của bà H1 rồi cất vào trong tủ kệ ti vi ở phòng khách. Chìa khóa tủ ông bà trực tiếp giữ và mang theo khi đi làm. Đầu tháng 11/2019 do thiếu tiền trả công thợ, mẹ đẻ của Phạm Thị A là bà Vũ Thị H2 hỏi A: “Con xem có bạn bè hay người thân nào mượn cho mẹ mấy chục triệu để mẹ trang trải tiền lương cho thợ thuyền”. Phạm Thị A không có tiền nhưng biết bố mẹ chồng để tiền ở nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp tiền của bố mẹ chồng để đưa cho bà H2 mượn. Khoảng giữa tháng 11/2019, vợ chồng ông T1 về quê ăn giỗ, để chùm chìa khóa tủ trên mặt tủ kệ tivi, A đã lấy chìa khóa tủ đem lên thị trấn Cổ Lễ đánh thêm chìa khóa mới, mục đích để mở tủ kệ tivi trộm cắp tiền của bố mẹ. Ngày 15/11/2019 vợ chồng ông T1 và anh K đi làm, ở nhà A lấy chìa khóa mới đánh mở tủ kệ tivi nơi để quần áo của bố mẹ chồng, phát hiện trong chiếc áo thun màu đen bên trong có 3 cọc tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng. A rút ở mỗi cọc 5.000.000 đồng. A thấy ở túi áo khoác màu trắng sữa có nhiều cọc tiền mệnh giá 200.000 đồng và 500.000 đồng, A rút lấy 25.000.000 đồng. Tổng cộng A đã lấy số tiền là 40.000.000 đồng. Sau đó A gấp quần áo ngay ngắn lại như cũ rồi khóa cửa tủ lại. A đem số tiền 40.000.000 đồng lấy được đưa cho bà H2 mượn. Ngày 11/01/2020, A lại dùng chìa khóa mở tủ kệ tivi, lấy ở trong túi chiếc áo khoác màu trắng sữa 20.000.000 đồng. Số tiền này A dùng chi tiêu cá nhân hết. Ngày 15/01/2020, A tiếp tục mở tủ kệ tivi lấy ở trong túi chiếc áo khoác màu trắng sữa số tiền 29.800.000 đồng. A dùng số tiền này mua dụng cụ cho cửa hàng làm Nails của mình. Ngày 18/01/2020 vợ chồng ông T1 kiểm tra phát hiện mất số tiền 89.800.000 đồng để trong tủ kệ tivi, nên đã làm đơn trình báo Công an. Sau khi ông T1 bà H1 có đơn trình báo Công an, Phạm Thị A đã tự thú nhận đã lấy số tiền trên với bố mẹ. Quá trình điều tra, bị cáo Phạm Thị A đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp số tiền 89.800.000đ của ông T1 và bà H1. Phạm Thị A và mẹ đẻ là bà Vũ Thị H2 đã trả lại toàn bộ số tiền mà A đã lấy cho ông T1 và bà H1.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2020/HS-ST ngày 28/7/2020 của Toà án nhân dân huyện Trực Ninh đã QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, n, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 54 BLHS: Xử phạt Phạm Thị A 18 (mười tám) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thụ hình.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 05/8/2020,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh ra kháng nghị số 04/QĐ-VKS-KSĐT với nội dung: Kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 38/2020/HS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng: Không cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn nặn hối cải” và tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Thị A.

Ngày 06/8/2020, bị cáo Phạm Thị A có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo đang nuôi 02 con nhỏ và hiện đang mang thai. Đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc con cái và gia đình.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Đại diện VKSND tỉnh Nam Định trình bày: Do bị cáo thừa nhận 03 lần trộm cắp tài sản nên VKSND tỉnh Nam Định rút nội dung kháng nghị đề nghị không cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và về hình phạt đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh.

Bị cáo Phạm Thị A giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Bị cáo 03 lần trộm cắp tài sản, hiện đang mang thai và nuôi 02 con nhỏ, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện nuôi dưỡng các con.

Ông Trịnh Xuân T1 trình bày: Bị cáo Phạm Thị A đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho vợ chồng ông, đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo, ông cam đoan trong thời gian thử thách nếu bị cáo A phạm tội, ông hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Đề nghị chấp nhận nội dung kháng nghị giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo Phạm Thị A, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về phần thủ tục: Quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định ban hành theo đúng qui định tại Điều 336, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự và đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Từ ngày 15/11/2019 đến ngày 15/01/2020, tại nhà của ông Trịnh Xuân T1, bà Nguyễn Thị H1 ở thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Nam Định, Phạm Thị A đã 3 lần lén lút mở tủ kệ tivi lấy trộm số tiền 89.800.000 đồng của vợ chồng ông T1, bà H1. Cụ thể: Ngày 15/11/2019 A lấy 40.000.000 đồng; Ngày 11/01/2020 A lấy 20.000.000 đồng; Ngày 15/01/2020 A lấy 29.800.000 đồng. Hành vi của bị cáo Phạm Thị A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS. Nên cấp sơ thẩm đã xét xử Phạm Thị A về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của BLHS là có cơ sở.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Phạm Thị A thừa nhận trộm cắp của vợ chồng ông T1, bà H2 số tiền 89.800.000 đồng một lần. Tuy nhiên, những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện bị cáo đã 3 lần lén lút mở tủ kệ tivi lấy trộm số tiền 89.800.000đ của vợ chồng ông T1, bà H1 nên VKSND huyện Trực Ninh kháng nghị không cho bị cáo hưởng tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận hành vi 03 lần trộm cắp tài sản của ông T1, bà H1 với tổng số tiền 89.800.000 đồng, VKSND tỉnh Nam Định đã rút nội dung kháng nghị của VKSND huyện Trực Ninh là bị cáo chưa thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017, là có sơ sở chấp nhận.

[4] Xét nội dung kháng nghị của VKSND tỉnh Nam Định đề nghị giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo và xét yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo thấy rằng: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS và xử phạt bị cáo 18 tháng tù là phù hợp; Tuy nhiên, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi hai con còn nhỏ, hiện tại bị cáo đang mang thai và có nơi cư trú rõ ràng, tại phiên tòa bị hại Trịnh Xuân T1 tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đồng thời có đơn xin bảo lãnh cho bị cáo; Đối chiếu với hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thì việc miễn chấp hành hình phạt tù cho bị cáo được hưởng án treo, là không trái quy định. Vì vậy, không chấp nhận nội dung kháng nghị của VKSND tỉnh Nam Định đề nghị giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo, chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, tạo điều kiện cho bị cáo vừa cải tạo vừa chăm lo cho gia đình, thể hiện bản chất nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Do sửa án sơ thẩm, nên người kháng cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 BLTTHS,

Chấp nhận nội dung rút kháng nghị đề nghị không cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, không chấp nhận nội dung kháng nghị đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thị A, sửa bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, n, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 54; Điều 65 BLHS 1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt Phạm Thị A 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (29/9/2020);

Giao bị cáo Phạm Thị A cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;

3. Án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án thì người bị thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 81/2020/HS-PT ngày 29/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:81/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;