Bản án 81/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 81/2018/HS-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2018/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo: NVĐ, sinh ngày 30/9/2000

Nơi đăng ký HKTT và cư trú: xóm T, xã Đ, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông NVT và bà TTY; vợ, con: Chưa;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 09/11/2017, bị Công an huyện Chương Mỹ xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản.

Bị cáo đang tại ngoại tại xóm T, xã Đ, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo pháp luật của bị cáo NVĐ: Ông NVT, bà TTY (bố mẹ đẻ).

Có mặt ông NVT.

Cư trú tại: xóm T, xã Đ, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

Người bào chữa cho bị cáo NVĐ: Bà Phạm Ngọc Lan – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội. Có mặt.

* Người bị hại: Anh HTH, sinh năm 1983

Cư trú tại: thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, huyện Chương mỹ, Thành phố Hà Nội

Anh HTH xin xét xử vắng mặt.

* Những người làm chứng:

1. Ông HTH1, sinh năm 1964

2. Ông LTC, sinh năm 1966

Đều cư trú tại: thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, huyện Chương mỹ, Thành phố Hà Nội Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 11/02/2018, NVĐ sinh ngày 30/09/2000 đi bộ một mình từ khu vực cổng Nghĩa trang Liệt sỹ thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ đến quán Internet Gia Bảo ở thôn Ngọc Giả, xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ. Khi đi qua nhà ông HTH1 ở thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, Đ nhìn thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu Nâu, BKS 29X1 – 098.75 của anh HTH (em trai anh H1) dựng trước của nhà ông H1. Đ quan sát xung quanh thấy không có người qua lại, xe không có người trông giữ, không khóa càng, không khóa cổ nên Đ đã vào lấy chiếc xe trên và dắt bộ đến quán Internet Gia Bảo để chơi game. Chơi game được khoảng 10 phút, Đ sợ bị phát hiện nên lấy mỏ lết trong balô Đ đeo trên người để tháo biển số của chiếc xe mô tô vừa lấy trộm được, sau đó Đ cất chiếc biển số và chiếc mỏ lết vào ba lô của Đ. Đ tiếp tục chơi game đến 07 giờ sáng ngày 12/02/2018, Đ dắt chiếc xe mô tô sang quán sửa xe máy của ông LTC để thay ổ khóa điện của xe, trong quá trình thay ổ khóa Đ bảo ông C tháo bộ yếm của chiếc xe ra. Sau đó, Đ điều khiển xe và cầm bộ yếm xe mang về vứt tại cổng lối vào bãi rác trên đường Anh Trỗi thuộc xóm T, xã Đ, huyện Chương Mỹ. Đến 11 giờ ngày 12/02/2018, NVĐ đến Công an huyện Chương Mỹ đầu thú và giao nộp chiếc xe mô tô đã trộm cắp, biển số xe và chiếc mỏ lết.

Vật chứng vụ án :

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, số máy 0297220, số khung 0297220, biển kiểm soát 29X1 – 09875 xe đã qua sử dụng.

- 01 mỏ lết màu trắng bạc, dài 16 cm

Kết luận định giá số 20/TC- KLĐG ngày 13/02/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chương Mỹ kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS: 29X1 – 09875; Màu sơn nâu, số khung 0297220, số máy 0297220; Đăng ký lần đầu ngày 13/10/1995 (Đã qua sử dụng) giá trị còn lại: 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăn ngàn đồng).

Cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 14/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ truy tố: NVĐ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa,

- Bị cáo NVĐ đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố NVĐ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt NVĐ từ 03 tháng đến 06 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy chiếc mỏ lết đã thu giữ.

- Người bào chữa cho bị cáo NVĐ có quan điểm: Khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi; nhận thức pháp luật chưa đầy đủ, hiểu biết pháp luật còn hạn chế; bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không có dự mưu từ trước; người bị hại cũng có một phần lỗi trong việc trông giữ, bảo quản tài sản; tài sản bị mất đã trả lại người bị hại; bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gia đình bị cáo luôn chấp hành tốt pháp luật; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo NVĐ.

- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo NVĐ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất, tạo điều kiện cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố, về hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về: Khởi tố vụ án; khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; cử người bào chữa cho bị can. Về các biện pháp điều tra như: Lấy lời khai bị can, lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng; thu giữ vật chứng; trưng cầu định giá tài sản; về việc giao nhận các văn bản tố tụng cho bị can đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thu thập đầy đủ, đúng trình tự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên: Không mớm cung, ép cung, bức cung, dùng nhục hình đối với bị can.

[1.2]. Về sự vắng mặt của người bị hại và những người làm chứng: Người bị hại là anh HTH đã nhận lại tài sản, đã có lời khai và không yêu cầu bồi thường; những người làm chứng đã có lời khai trong quá trình điều tra nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án.

 [2]. Về nội dung:

[2.1]. Xét lời khai của bị cáo NVĐ tại phiên tòa phù hợp với biên bản về việc người phạm tội ra đầu thú, lời khai trong quá trình điều tra, tang vật thu giữ, kết luận định giá trong tố tụng hình sự, lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 11/02/2018 tại thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội, NVĐ (sinh ngày 30/09/2000) đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát 29X1 – 098.75 trị giá 7.500.000 đồng của anh HTH.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là chiếc xe mô tô của người khác có giá trị 7.500.000 đồng mà NVĐ thực hiện đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ truy tố NVĐ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất ổn định tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn. Bị cáo NVĐ đã có 01 tiền sự, ngày 09/11/2017 bị Công an huyện

Chương Mỹ xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền là 750.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản chưa được xóa nhưng bị cáo không coi đó là bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của cáo mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm cũng như phòng ngừa chung.

[2.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Xét bị cáo đều không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú và giao nộp lại tài sản đã chiếm đoạt để trả lại cho người bị hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành người tốt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng Điều 91 và Điều 101 khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[2.5]. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X1 – 09875, số máy 0297220, số khung 0297220 là tài sản hợp pháp của anh HTH, ngày 13/02/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chương Mỹ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho anh H quản lý, sử dụng là có căn cứ nên không xem xét. Đối với 01 chiếc mỏ lết là phương tiện bị cáo sử dụng để tháo biển số và là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[3]. Vê trach nhiêm dâ n sư: Anh HTH đã nhận lại tài sản, chiếc xe bị mất bộ yếm và bị thay ổ khóa nhưng do thiệt hại không đáng kể nên anh H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét trách nhiệm bồi thường.

[4]. Vê án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội phạm: Tuyên bố bị cáo NVĐ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo NVĐ 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc mỏ lết màu trắng bạc dài 16 cm (Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/5/2018 giữa Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chương Mỹ).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy

định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo NVĐ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo NVĐ; người đại diện theo pháp luật của bị cáo; người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại là anh HTH vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 81/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:81/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;