Bản án 80/2022/HS-ST về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 80/2022/HS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TỘI GIT NGƯỜI

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 68/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P, sinh ngày 05/10/1982 tại thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn H huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lưu Thị B và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị b t tạm giam từ ngày 11/10/2021 đến nay, “có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn P: Bà Nguyễn Thị Kim Q – Luật sư Công ty Luật TNHH Thiên Ý, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn L, xã S, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, "có mặt".

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Minh Đ, sinh năm 2000; nơi cư trú: Thôn K, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, "vắng mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm t t như sau:

Ngày 07/7/2021, Nguyễn Văn D cùng với anh Nguyễn Văn Ư làm trần thạch cao thuê cho Nguyễn Văn P. Quá trình làm trần thì giữa P và D xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, vì P cho rằng D làm tấm trần thạch cao mỏng, không theo ý P. Sau khi làm xong, ngày 08/7/2021 anh Ước thanh toán với P số tiền công là 13.500.000 đồng, nhưng P chỉ chi trả 13.000.000 đồng, nợ lại 500.000 đồng. Sau đó, P nhiều lần nh n tin cho anh Ư để xin số điện thoại của D nhưng không được, anh Ước cũng không nói việc này cho D. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày 11/7/2021, anh Ước cùng các anh Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn D uống bia tại quán bia ở tổ dân phố Vinh Tiến, thị trấn Bá Hiến. Trong khi ngồi uống bia, anh Ước nói cho D biết việc P muốn gặp D và xin số điện thoại của D, đồng thời cho D xem nội dung tin nh n P nh n cho anh Ước. Sau khi xem xong, D ghi nhớ số điện thoại của P, mục đích sẽ gọi cho P để nói chuyện. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, D cùng anh C và một số bạn bè khác của D gồm anh Nguyễn Văn H và anh Nguyễn Việt A rủ nhau đến quán bia của anh Nguyễn Huy H, ở thôn L, xã S, huyện B để tiếp tục uống bia. Đến khoảng 23 giờ 50 phút cùng ngày, D cùng anh H, anh A, C rủ nhau đi ăn đêm. A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu sơn đen, biển kiểm soát 88G1-214.22 chở H; C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu sơn xanh, biển kiểm soát 88G1-3781 chở D đi đến quán “Hiệp Gà” ở khu phố 2, thị trấn Hương Canh. Tại đây D gọi điện thoại cho P nói “Anh P à, em là người làm trần thạch cao nhà anh hôm trước đây, anh muốn gặp em có việc gì anh nói luôn đi”. Nghe D nói vậy, P nói “Khi nào gặp tao sẽ nói chuyện”. D nói“Mày thích đánh nhau à, ra cầu treo gặp tao” thì P nói “Ừ, tao sẽ ra”. Sau khi thách thức đánh nhau và hẹn gặp nhau tại khu vực cầu Tam Canh (thường gọi là cầu Treo) thuộc tổ dân phố C, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, thì D mượn xe mô tô của A và nói “Cho mượn xe đi ra ngoài có tý việc”. Còn P đi bộ một mình từ nhà ở đến nơi hẹn, khi đi đem theo 01 con dao, dạng dao qu m, phần thân lưỡi dao bằng kim loại, cũ, rỉ, chuôi gỗ, có tổng chiều dài cả chuôi và lưỡi là 70cm. Đến chỗ hẹn, P cất giấu dao ở thành cầu và đứng đợi tại vị trí lan can đầu cầu bên phải theo hướng từ QL2 đi đến, cách biển chỉ dẫn “Cầu Tam Canh” khoảng 15 mét. Còn D điều khiển xe mô tô đi đến đoạn ngã 3 đường giao nhau giữa đường TL305B với đường rẽ vào UBND thị trấn H thì dừng lại, cách Cầu Tam Canh khoảng 150 mét theo hướng đi ra QL2, quan sát thấy P một mình đang đứng đợi ở đầu cầu và thấy P đang cầm vật gì đó nên D gọi điện thoại cho cháu rể là Nguyễn Minh Đ và nói với Đ “Mày cầm đồ đi ra chỗ cầu treo Hương Canh, chỗ kéo song có thằng nó đánh cậu”, Đ nghe thấy vậy, đồng ý và nói với D “Cậu chạy vào trong quán nào ở đấy cho nó đỡ đánh, cháu đi đến bây giờ”. Sau đó, Đ đi xuống bếp nhà Đ lấy 01 con dao, dạng dao mèo, có vỏ bao bằng gỗ màu nâu, phần thân lưỡi dao s c bằng kim loại, mũi dao nhọn, chuôi bằng gỗ, chiều dài khi đựng trong bao là 32,5cm và 01 gậy rút, kiểu gậy 3 khúc bằng kim loại, màu đen, tổng chiều dài 3 khúc là 68cm, rồi cài dao và gậy rút ở hai bên cạp quần đang mặc và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn xanh, biển kiểm soát 88E1-188.76 đi đến gặp D. Khi thấy Đ đi đến, D hỏi Đ “Đồ đâu mang đây”, Đ rút con dao dạng dao mèo được cài ở cạp quần ra đưa cho D, còn Đ cầm gậy 3 khúc. Sau đó, D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88G1- 214.22 đi đến vị trí P đang đứng chờ, còn Đ điều khiển xe mô tô đi theo sau. Khi đến đầu cầu Treo, đoạn gần với biển chỉ dẫn “CẦU TAM CANH” ở phía bên trái theo hướng đi, cách vị trí P đứng khoảng 20 mét thì D dừng xe mô tô lại, dựng xe mô tô dưới lòng đường sát vỉa hè, tay phải cầm dao đi bộ về phía P và hỏi P “Mày là P à”, P nói “Ừ, tao đây”. Sau đó, P lấy dao qu m ra cầm bằng tay phải, D cũng rút dao ra khỏi bao, vứt bỏ vỏ bao xuống vỉa hè, cầm dao bằng tay phải. D và P lao vào áp sát nhau, tư thế đứng mặt đối mặt. P cầm dao qu m vung lên chém 01 nhát hướng từ trên xuống dưới từ phải sang trái trúng vào vị trí giáp cổ, vai phải kéo xuống vùng lưng của D, bị chém D giơ tay trái lên gạt tay cầm dao của P làm P bị rơi dao qu m xuống đường. Lúc này, D vung dao lên chém liên tiếp khoảng 2- 3 nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vùng đỉnh đầu bên trái của P. Sau đó, D cầm dao đâm 01 nhát về phía ngang thân người bên trái của P nhưng P dùng tay trái n m và giữ được tay cầm dao của D và đỡ được, sau đó, tay phải P cầm vào khoảng giữa phần sống dao của D đẩy mũi dao ngược lại chọc 01 nhát theo hướng từ dưới lên trên trúng khoảng giữa vùng sườn trái của D. Sau đó, P và D giằng co, du đẩy nhau khiến cả hai cùng ngã tư thế ngã ngồi xuống nền lan can cầu. D ở tư thế ngã ngồi, thân người nghiêng sang phải, cánh tay phải chống xuống nền cầu, bàn tay phải cầm dao, mũi dao dựng thẳng đứng hướng lên trên, tay trái n m giữ bả vai phải của P, còn P ở tư thế ngồi mặt đối mặt áp sát, khụy 02 đầu gối xuống nền cầu, tay phải giữ bả vai trái D, tay trái n m giữ mặt ngoài bàn tay phải cầm dao của D. Trong khi giằng co với P thì D hô to “Giằng dao nó ra”, lúc này Đ từ phía sau cầm gậy rút chạy đến vị trí D và P đang giằng co, du đẩy nhau, khi cách khoảng 01 mét, Đ cầm gậy rút bằng tay phải vụt liên tiếp 2-3 phát trúng vào tay phải của P, P giơ chân phải lên đạp 01 phát trúng vùng bụng của Đ khiến Đ bị đẩy lùi về phía sau, do lực đạp mạnh khiến phần thân người của P bị xô về phía trước dẫn đến vùng nách trái của P xô trúng vào mũi dao mà D đang cầm. Sau đó, tay trái P n m giữ bàn tay phải đang cầm dao của D, tay phải P cầm vào khoảng giữa phần sống dao đẩy ngược mũi dao quay lại chọc 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau trúng vùng má trái của D. D và P tiếp tục giằng co dao với nhau thì Đ đứng áp sát phía sau P dùng tay trái giằng co con dao làm con dao rơi xuống nền cầu, tay phải Đ cầm gậy rút vụt liên tiếp khoảng 4-5 phát trúng vào vùng b p chân trái của P khiến P bị đau và buông D ra rồi bỏ chạy về hướng UBND thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên. Thấy D bị thương, Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88E1-188.76 chở D đưa đi bệnh viện để cấp cứu. Trên đường đi theo đường tỉnh lộ 305B khi đi đến đoạn bờ hồ Đồng Công thuộc khu phố 2, thị trấn Hương Canh thì D vứt bỏ dao ở rệ đường bên phải hướng đi (tiếp giáp bờ hồ Đồng Công). D được Trung tâm Y tế huyện Bình Xuyên cấp cứu, sau đó chuyển đến Bệnh viện hữu nghị Việt Đ tiếp tục cấp cứu, điều trị. Ngày 14/7/2021 D được chuyển về Bệnh viện Đa khoa khu vực Phúc Yên tiếp tục điều trị đến ngày 17/7/2021 thì ra viện. Nguyễn Văn P được mọi người đưa đến cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện Bình Xuyên sau đó chuyển đến Bệnh viện Đa khoa khu vực Phúc Yên điều trị đến ngày 19/7/2021 thì ra viện.

Sau khi tiếp nhận tin báo của Công an thị trấn Hương Canh, Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã phối hợp cùng các cơ quan chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng và tổ chức điều tra theo quy định của pháp luật.

Về thương tích của Nguyễn Văn D: Tại Bệnh án số 31119 ngày 14/7/2021 của Bệnh viện hữu nghị Việt Đ xác định “Bệnh nhân Nguyễn Văn D vào viện lúc 02h40’ ngày 12/7/2021. Bệnh nhân có các vết thương: 01 vết thương má trái kích thước 15cm thông vào trong khoang miệng, đã được khâu cầm máu tạm thời; 01 vết thương tai bên trái rách 1/3 vành tai; vùng cổ - bả vai bên phải có 01 vết thương kích thước 15x5cm, bờ s c gọn, chảy nhiều máu, tay bên phải hạn chế vận động khớp vai; Vết thương ngực bên trái kích thước 2x1cm; Vết thương chân phải kích thước 1x1cm.

Về thương tích của Nguyễn Văn P: Tại Bệnh án số 022336 ngày 19/7/2021 của Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên xác định “Bệnh nhân Nguyễn Văn P vào viện lúc 02h40’ ngày 12/7/2021. Bệnh nhân có các vết thương: 01 vết thương đầu vùng thái dương trái kích thước 03x0,5cm, 01 vết thương vùng thành ngực trái kích thước 04x0,5cm, 01 vết thương gan bàn tay phải kích thước 2,5x0,2cm.

Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên đã tiến hành trưng cầu thương tích của Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn P theo quy định.

Đi với thương tích của Nguyễn Văn D:

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 245/TgT ngày 15/7/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “ Dấu hiệu chính qua giám định: Gãy thân xương hàm dưới còn PTKHX xếp 08%; tràn dịch khoang màng phổi trái xếp 03%; vết thương phần mềm dưới đuôi m t trái xuống góc cằm trái xếp 02%; vết thương phần mềm 1/3 trên vành tai trái xếp 01%; vết thương phần mềm cổ ngoài bên phải ra sau vai xếp 02%; vết thương phần mềm tương ứng khoang liên sườn 9,10 đường nách giữa bên trái xếp 02%; vết thương phần mềm mặt trước trong gối phải xếp 01%; phù nề đụng dập tụ khí phần mềm dưới da các cơ vùng cổ sau vai và lưng bên phải không có trong danh mục xếp tỷ lệ phần trăm thương tích, hiện tại nạn nhân đang điều trị các thương tích, khi nào ra viện ổn định giám định bổ sung. Cơ chế hình thành vết thương: Các vết thương tích do vật s c gây nên; vết thương dưới đuôi m t trái xuống góc cằm trái nằm ở vị trí hiểm yếu; các thương tích đã mô tả trên không có trong danh mục đánh giá để lại cố tật và ảnh hưởng thẩm mỹ. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể xếp 18% (Mười tám phần trăm)”.

Ngày 04/9/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 534, trưng cầu Trung tâm Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định bổ sung đối với thương tích của anh Nguyễn Văn D. Tuy nhiên anh D không đồng ý giám định bổ sung thương tích với lý do các thương tích do bị Nguyễn Văn P dùng dao qu m chém gây ra ngày 12/7/2021 đến nay đã được điều trị ổn định, anh đã đi lại và sinh hoạt bình thường.

Ngày 07/9/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định dẫn giải anh D đi giám định thương tích, nhưng anh D không chấp hành và cương quyết từ chối giám định bổ sung thương tích nên không giám định bổ sung được.

Đi với thương tích của Nguyễn Văn P:

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 246/TgT ngày 15/7/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương phần mềm vùng thái dương đỉnh trái xếp 01%;

vết thương phần mềm tương ứng khoang liên sườn 3,4 đường nách trước bên trái xếp 01%; vết thương phần mềm nếp làn nách sau bên trái xếp 01%; vết thương phần mềm mặt gan khe liên đốt 1, 2 bàn tay phải xếp 01%; vết thương phần mềm tương ứng mặt gan đốt 3 ngón 3 bàn tay phải xếp 01%; vết thương phần mềm tương ứng mặt gan đốt 3 ngón 4 bàn tay phải xếp 01%; vết thương phần mềm tương ứng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân phải xếp 02%; vết thương vùng thái dương đỉnh trái nằm ở vị trí hiểm yếu. Các thương tích đã mô tả trên không có trong danh mục đánh giá để lại cố tật và ảnh hưởng thẩm mỹ. Cơ chế hình thành vết thương: Các vết thương tích do vật s c gây nên; 02 vết bầm tím 1/3 dưới lưng trái có thể do vật tày gây nên. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể xếp 08% (Tám phần trăm)”.

Ngày 04/9/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 533, trưng cầu Trung tâm Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định bổ sung đối với thương tích của Nguyễn Văn P, tuy nhiênP từ chối giám định bổ sung.

Ngày 22/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên ra Quyết định trưng cầu giám định số 425 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định mẫu máu thu tại hiện trường.

Tai bản Kết luận giám định số 1832 ngày 01/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: Các Mẫu chất màu nâu đỏ ghi thu tại vị trí số (1) và (6) tại hiện trường gửi giám định là máu người. Không xác định được nhóm máu do dấu vết ít; mẫu chất màu nâu đỏ ghi thu tại vị trí số (9) tại hiện trường gửi giám định không phải là máu người.

Ngày 14/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên ra Quyết đinh trưng cầu giám định số 405 trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định AND trên hai con dao thu tại hiện trường và so sánh mẫu AND của Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn D, Nguyễn Minh Đ.

Tại bản Kết luận giám định số 5934 ngày 06/8/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “Trên con dao qu m (ký hiệu A1) và con dao nhọn (ký hiệu A3) gửi giám định đều có bám dính máu người và đều là máu của Nguyễn Văn D; không thấy bám dính máu của Nguyễn Văn P và Nguyễn Minh Đ. Các chất màu nâu đỏ ghi thu tại vị trí số 3 (ký hiệu A5), tại vị trí số 8 (ký hiệu A7) gửi giám định đều là máu người và đều là máu của Nguyễn Văn D, không phát hiện thấy bám dính máu của Nguyễn Văn P và Nguyễn Minh Đ”.

Ngày 14/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Xuyên ra Quyết đinh trưng cầu giám định số 406 trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định dấu vết đường vân trên con dao qu m, con dao nhọn và vỏ bao đựng dao nhọn.

Ti bản Kết luận giám định số 5919 ngày 30/7/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “Trên 02 con dao và vỏ bằng gỗ, ngoài được quấn dây cao su màu đỏ, đen gửi giám định có phát hiện thấy một số dấu vết đường vân, các dấu vết này không thể hiện rõ đặc điểm chung và riêng nên không đủ yếu tố giám định”.

Trên cơ sở trưng cầu giám định tâm thần đối với Nguyễn Văn P của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc, tại bản Kết luận giám định số 95/KLGĐ ngày 26/5/2022 của Viện pháp y tâm thần trung ương, kết luận: “Thời điểm trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 12/7/2021 Nguyễn Văn P bị bệnh chậm phát triển tâm thần nhẹ. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F70; tại các thời điểm trên Nguyễn Văn P hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.

Về trách nhiệm dân sự: Các bên đã tự hòa giải và không yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKS-P2 ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội "Giết người" theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn P từ 07 năm đến 08 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị b t tạm giam ngày 11/10/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy các công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội và tịch thu sung ngân sách nhà nước các công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội còn giá trị sử dụng.

Ý kiến của người tham gia tố tụng:

Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày bản bào chữa khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Điều luật và hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp, Luật sư đồng tình với mức án mà Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt 07 năm tù.

Ý kiến của người tham gia tố tụng:

Bị hại Nguyễn Văn D thừa nhận nội dung sự việc đúng như diễn biến mà bị cáo trình bày. Quá trình điều tra các bên đã tự hòa giải và không đề nghị giải quyết về phần bồi thường dân sự. Bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn P và cho bị cáo được hưởng mức án dưới 07 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Bị cáo Nguyễn Văn P khai nhận do có mâu thuẫn với Nguyễn Văn D trước đó nên giữa bị cáo và Nguyễn Văn D đã điện thoại hẹn nhau ra cầu Tam Canh để đánh nhau. Khi điP đem theo 01 con dao qu m; còn D điện thoại bảo Nguyễn Minh Đ đem theo 01 con dao mèo và 01 gậy rút 3 khúc. Khoảng 23 giờ 50 phút ngày 11/7/2021, tại cầu Tam Canh thuộc tổ dân phố Chùa Hạ, thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, khi gặp nhau thìP và D lao vào áp sát nhau,P cầm dao qu m vung lên chém 01 nhát hướng từ trên xuống dưới từ phải sang trái về phía D, D giơ tay trái lên gạt tay cầm dao củaP thì dao củaP chém trúng vào phần cổ, vai phải kéo xuống vùng lưng của D và dao bị rơi xuống đường. Sau khi bịP chém, D vung dao lên chém liên tiếp khoảng 2 đến 3 nhát theo hướng từ trên xuống dưới và trúng vùng đỉnh đầu bên trái củaP, rồi đâm 01 nhát về phía ngang người bên trái củaP nhưngP dùng tay trái n m và giữ được tay cầm dao của D. P và D giằng co nhau con dao trên tay D,P cầm vào khoảng giữa phần sống dao của D đẩy mũi dao ngược lại chọc 01 nhát trúng khoảng giữa vùng sườn trái của D, cả hai cùng bị ngã ở tư thế ngã ngồi xuống nền lan can cầu. Sau đó, D và P tiếp tục giằng co nhau con dao D đang cầm trên tay làm mũi dao chọc vào vùng nách trái của P và vào má trái D. Khi thấy P và D tiếp tục đánh nhau ở tư thế ngồi thì Nguyễn Minh Đ cầm gậy côn rút 3 khúc đánh liên tiếp vào tay, chân, người của thì P bỏ chạy. Hậu quả, D bị thương tích phức tạp vùng cổ, vai do bị chém và thương tích vùng má trái, tổn hại 18% sức khỏe; còn P bị thương tích phần đỉnh đầu trái, ngực trái, bàn tay phải, tổn hại 08% sức khỏe.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn P tại phiên tòa là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với vật chứng vụ án thu giữ được và các Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Nguyễn Văn P dùng dao qu m có tổng chiều dài 70cm là hung khí nguy hiểm chủ động chém vào vùng cổ, vai của Nguyễn Văn D làm lộ mạch máu lớn là hết sức nguy hiểm. Vùng cổ là vùng trọng yếu của cơ thể con người, với lực chém mạnh, khoảng cách gần, tư thế đối diện và hung khí nguy hiểm mà bị cáo P sử dụng sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng của bị hại nhưng do anh Nguyễn Văn D được đưa đi cấp cứu kịp thời nên hậu quả đáng tiếc chưa xảy ra. Tuy hậu quả chết người chưa xảy ra và bị hại chỉ tổn hại 18% sức khỏe nhưng hành vi của Nguyễn Văn P đã phạm vào tội "Giết người". Hành vi giết người nêu trên của P không thuộc các trường hợp được quy định tại khoản 1 mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự; có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang lo l ng cho nhân dân, vì vậy cần xử phạt nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đó là bị cáo bị bệnh chậm phát triển tâm thần nhẹ, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; gia đình bị cáo hoàn cảnh và điều kiện kinh tế rất khó khăn; bị hại cũng có một phần lỗi; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp thấp hơn mức Viện kiểm sát đề nghị.

[6] Bị cáo Nguyễn Văn P bị xét xử về tội "Giết người" nhưng do hậu quả chết người chưa xảy ra nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, vì vậy khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt không quá ba phần tư mức hình phạt tù theo quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, bản thân bị cáo cũng bị thương tích 08%; tại phiên tòa bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp thấp hơn mức Viện kiểm sát đề nghị. Thấy rằng, mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có phần nghiêm kh c, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt của bị hại, xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức tối thiểu mà Viện kiểm sát đề nghị nhằm tạo điều kiện giúp bị cáo yên tâm cải tạo, sửa chữa sai lầm để sớm được đoàn tụ với gia đình.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[8] Đối với hành vi của Nguyễn Văn D dùng dao mèo chém vào vùng đầu của Nguyễn Văn P, thấy rằng: Tuy dao mèo là hung khí nguy hiểm, chém vào vùng đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể nhưng thương tích của Nguyễn Văn P do nhát chém của D gây ra chỉ rách da, cơ đầu tổn hại 01% sức khỏe (các thương tích khác là do quá trình giằng co dao giữa P và D). D chém P sau khi đã bị P chém vào vùng cổ, vai bên phải, lúc này D đang ở tư thế quỵ người, chém trong tư thế chém với và sau khi đã bị thương tích nên lực chém không mạnh; hung khí sử dụng là loại dao mèo có kích thước ng n, nhỏ, bản mỏng, trọng lượng nhẹ nên khi chém sẽ không thể nguy hiểm đến tính mạng con người; đặc biệt D không có động cơ, mục đích giết P và hậu quả thực tế thì P chỉ bị thương tích nhẹ. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn D không phạm tội “Giết người” mà chỉ phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự. Nguyễn Văn P bị tổn hại 08% sức khỏe là thuộc trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Do Nguyễn Văn P không yêu cầu xử lý Nguyễn Văn D và Nguyễn Minh Đ là đồng phạm của D về hành vi gây thương tích cho mình nên Cơ quan điều tra không khởi tố vụ án “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với các điện thoại di động được sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu, sung quỹ nhà nước; các vật chứng sử dụng vào việc phạm tội, liên quan đến việc phạm tội không còn giá trị sử dụng thì tịch thu để tiêu huỷ.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Giết người”.

Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 06 (Sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị b t tạm giam ngày 11 tháng 10 năm 2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu, tiêu hủy: 01 con dao qu m, 01 con dao dạng dao mèo, 01 gậy rút màu đen, 04 chiếc dép lê, 01 mũ bảo hiểm dạng nửa đầu màu đen và 01 vỏ dao bằng gỗ cong kiểu vòng cung.

Tch thu, sung ngân sách nhà nước của: Nguyễn Văn P chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel; Nguyễn Minh Đ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; Nguyễn Văn D chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm như Biên bản giao, nhận vật chứng do Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc lập ngày 12 tháng 9 năm 2022.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan v ng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 80/2022/HS-ST về tội giết người

Số hiệu:80/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;