TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 334/2021/HSPT NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Vào ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 443/2021/TLPT-HS ngày 25 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Hoàng Xuân D về tội “Giết người ”. Do có kháng cáo của bị cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1993/2021/QĐXXPT-HS ngày 09 tháng 9 năm 2021.
- Bị cáo có kháng cáo:
Hoàng Xuân D, sinh ngày 03/3/1977 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT: tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú trước khi phạm tội: thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Trình độ văn hóa: 7/12; D tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Xuân H (chết) và bà Tô Thị H (còn sống); Có vợ là Nguyễn Thị N và có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2014); Tiền án, tiền sự: Không
Bị bắt tạm giam từ ngày 03/8/2020. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Phú C Luật sư - Văn phòng Luật sư M, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng, bào chữa theo yêu cầu của Tòa án.
Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 05 giờ ngày 18/6/2020, Hoàng Xuân D đi bộ tập thể dục, khi đi đến trước quán P, lô 30-31 đường H, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, D nghi ngờ vợ mình là chị Nguyễn Thị N có quan hệ tình cảm với chủ quán P là anh Nguyễn Văn T nên D leo lên tường qua lỗ thông gió ở nhà bếp để vào quán kiểm tra. Khi vào trong quán, D đi ngang nhà bếp lấy 01 (một) con dao (dài khoảng 50 cm, loại dao dùng đế chặt xương) đi đến phòng ngủ của quán. D mở của phòng ngủ thì thấy anh T đang mặc quần lót, D liền dùng dao chém một nhát từ trên xuống, anh T ngã người ra phía sau để tránh thì con dao trúng vào mắt phải, anh T nhảy lên giường thì D tiếp tục dùng dao đuổi chém, anh T dùng tay chụp được tay cầm dao của D, cả hai giằng co nhau. Lúc này, chị N đang tắm nghe tiếng ồn ào nên chạy vào thấy D và anh T đang giằng co nhau nên chị N ôm D và giữ tay cầm dao của D lại. Cả ba tiếp tục giằng co thì ngã xuống đất, anh T vùng dậy bỏ chạy ra đường và được nhân viên của quán đưa đi cấp cứu.
Sau khi chém anh T xong, D đem vứt con dao ở kênh nước đường H, sau đó về nhà thay quần áo và đến Công an phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng trình diện.
Anh Nguyễn Văn T khai trong lúc D dùng dao chém anh T đã làm bể 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6s, ngoài ra D còn lấy số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) của anh T.
Tang, tài vật thu giữ:
01 (một) con dao dài khoảng 50cm, cán dao bằng gỗ dài 13cm (bọc kim loại hai đầu), lưỡi dao bằng kim loại dài 37cm; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s (đã bị vỡ màn hình).
Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số: 710/C09C (Đ3) ngày 11/7/2020 của Phân viện khoa học Hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận:
1. Kết quả chính: Anh Nguyễn Văn T bị đa chấn thương, đã được điều trị. Hiện tại có các tổn thương sau: Sẹo vùng đỉnh phải; Sẹo vùng mặt bên phải đứt lệ đạo s, co kéo hở mi.
- Vỡ, lún xoang hàm phải, mất một phần thành xoang hàm; Viêm xoang hàm phải sau chấn thương.
- Tổn thương thực thể mắt phải gây giảm thị lực; thị lực mắt phải còn đếm ngón tay 0,5m, thị lực mắt trái 4/10.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể:
Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số: 22/2019-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn T tại thời điểm giám định là 60%.
Tại Công văn số 203/CV-C09C (Đ3) ngày 25/9/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng giải thích cơ chế hình thành tổn thương như sau:
- Các tổn thương của anh Nguyễn Văn T gồm: vết thương vùng đỉnh phải (Sau điều trị để lại sẹo vùng đỉnh phải) và vết thương vùng mặt bên phải (sau điều trị để lại sẹo vùng mặt bên phải và các tổn thương tại mắt phải, xoan hàm phải).
- Các tổn thương này là những tổn thương nằm ở 2 vị trí khác nhau (vùng đầu và vùng mặt), cách nhau 6,8cm, hướng tác động khác nhau: vết thương vùng đỉnh phải có hướng tác động từ trên xuống dưới, vết thương vùng mặt bên phải là vết thương nằm chếch chéo, có hướng tác động từ trước ra sau.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 20/7/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
I. Về tội danh:
Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Xuân D phạm tội “Giết người”
II. Về hình phạt: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Hoàng Xuân D: 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 03/8/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/7/2021, bị cáo Hoàng Xuân D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Hoàng Xuân D giữ nguyên kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã kết luận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như sau: Hành vi của bị cáo Hoàng Xuân D bị kết án về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức hình phạt 15 năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo Hoàng Xuân D phạm tội chưa đạt là quá nghiêm khắc; trong vụ án này người bị hại có phần lỗi. Đồng thời, tại cấp phúc thẩm gia đình bị cáo đã bồi thường 20 triệu đồng. Do đó, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa hình phạt của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Chỉ vì nghi ngờ vợ có quan hệ tình cảm với bị hại Nguyễn Văn T; bị cáo Hoàng Xuân D đã dùng hung khí nguy hiểm là con dao (dài khoảng 50 cm, loại dao dùng để chặt xương) chém nhiều nhát vào nơi trọng yếu trên cơ thể con người; đó là vùng đầu của anh T: “bị đa chấn thương: Sẹo vùng đỉnh phải; Sẹo vùng mặt bên phải đứt lệ đạo, co kéo hở mi; vỡ, lún xoang hàm phải, mất một phần thành xoang hàm;”, gây tổn thương cơ thể của anh T với tỷ lệ là 60%. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng kết án bị cáo Hoàng Xuân D về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt:
Đây là vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt được áp dụng là đúng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhu: Bị cáo có nhân thân tốt; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú; hoàn cảnh gia đình khó khăn và trường hợp phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị cáo phạm tội chưa đạt nhưng xử bị cáo 15 năm tù là có phần nghiêm khắc và sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 20 triệu đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ nên HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Xuân D.
[3] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xét.
[4] Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng: Điểm b, khoản 1 Điều 355 và điểm c, khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm n, khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Xuân D và sửa hình phạt của bản án sơ thẩm:
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Xuân D 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 03/8/2020.
- Các quyết định còn lại của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo Hoàng Xuân D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 334/2021/HSPT
Số hiệu: | 334/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về