TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 80/2020/HC-PT NGÀY 25/06/2020 VỀ KHIẾU KIỆN YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Ngày 25 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 105/2020/TLPT-HC ngày 13 tháng 01 năm 2020 về việc “Khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định hành chính”, do Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2019/HC-ST ngày 28 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1402/2020/QĐ-PT ngày 04 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1972; địa chỉ: Số 3A7, Khu Đ, phường B, quận H, Thành phố Hà Nội.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; địa chỉ: Số 24 đường T1, quận H1, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Trần Văn M, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền số 6484/UQ-UBND ngày 25/9/2019).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Trần Bá Th, Phó Giám đốc Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Đà Nẵng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; địa chỉ: Số 24 đường T1, quận H1, thành phố Đà Nẵng.
2. Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng; địa chỉ: Số 37 đường H2, quận H1, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng: Bà Trần Thị Việt H3, Trưởng phòng Quản lý và Phát triển quỹ đất (được ủy quyền theo Giấy ủy quyền số 28/UQ-TTPTQĐ ngày 24/6/2020).
3. Cục Thuế thành phố Đà Nẵng; địa chỉ: Số 190 đường P, quận H1, thành phố Đà Nẵng.
4. Bà Phạm Quỳnh G, sinh năm 1975; địa chỉ: Số 3A7, Khu Đ, phường B, quận H, Thành phố Hà Nội.
- Người kháng cáo: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (Là người bị kiện trong vụ án) Tại phiên tòa: Ông Nguyễn Xuân T, ông Trần Bá Th, bà Trần Thị Việt H3 có mặt; các đương sự khác vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/8/2019 và quá trình tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện là ông Nguyễn Xuân T trình bày:
Ông Nguyễn Xuân T là người trúng đấu giá hai lô đất số 15 và 16 phân khu B2.6, khu tái định cư N1, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng (sau đây viết tắt là lô đất số 15 và 16 phân khu B2.6) theo kết quả phiên đấu giá ngày 21/01/2017 và đã được Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Đà Nẵng công nhận kết quả đấu giá hai lô đất trên tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02/3/2017.
Ngày 23/3/2017, Cục Thuế thành phố Đà Nẵng phát hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất số 1437/TB-CT và 1438/TBCT với tổng số tiền ông T phải nộp là 4.799.500.000 đồng, chia làm 02 đợt: Đợt 1, ông T đã nộp 50% với số tiền 2.399.750.000 đồng vào ngày 21/4/2017 (sớm 03 ngày); đợt 2, do bận công việc của cơ quan nên ông T đã nộp 50% số tiền còn lại là 2.399.750.000 đồng vào ngày 23/6/2017 (chậm 03 ngày so với thời hạn phải nộp ngày 23/6/2017). Ngày 26/10/2018, ông T nộp tiếp số tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế là 2.159.775 đồng vào ngân sách nhà nước.
Ngày 26/11/2018, ông T nhận được Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc hủy kết quả đấu giá các lô đất 15, 16 tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND, đồng thời tịch thu tiền đặt trước của ông T để nộp ngân sách thành phố với lý do là ông T nộp chậm số tiền 03 ngày. Về việc này, ông T có ý kiến: Sau khi trúng đấu giá, ông đã chấp hành nộp đủ 100% số tiền theo thông báo vào Kho bạc Nhà nước thành phố Đà Nẵng, đồng thời nộp cả tiền chậm nộp 03 ngày theo quy định của Luật Quản lý thuế và đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
Từ khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính cho đến nay, ông T vẫn chưa được bàn giao đất, mặc dù nhiều lần có đơn thư gửi đến các cơ quan chức năng của thành phố nhưng đều không được giải quyết. Thực tế khi giải quyết một số vụ việc nộp chậm tiền sử dụng đất khác như: Công ty TNHH A, hộ bà Lê Thị Minh Th1 và hộ ông Nguyễn Thành K là những tổ chức, cá nhân cũng nộp chậm tiền sử dụng đất như ông nhưng vẫn được UBND thành phố Đà Nẵng cho thu tiền chậm nộp và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT. Chính vì vậy, việc UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 về việc hủy kết quả trúng đấu giá tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND, đồng thời tịch thu tiền đặt trước của ông nộp vào ngân sách thành phố là trái pháp luật.
Vì những lý do trên, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 của UBND thành phố Đà Nẵng; đồng thời, công nhận kết quả trúng đấu giá các lô đất 15, 16 phân khu B2.6 thuộc phường N1, quận S, thành phố Đà Nẵng tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02/3/2017 của UBND thành phố Đà Nẵng.
2. Ý kiến của người bị kiện:
Tại Văn bản số 6987/UBND-STNMT ngày 14/10/2019, UBND thành phố Đà Nẵng trình bày:
Ngày 30/9/2016, UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định số 6658/QĐ-UBND về việc sửa đổi nội dung điểm 4 Mục 3 Phương án đấu giá quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 3631/QĐ-UBND ngày 09/6/2016 của UBND thành phố về việc phê duyệt Phương án đấu giá quyền sử dụng đất.
Theo đó, đối tượng trúng đấu giá quyền sử dụng đất có trách nhiệm nộp tiền sử dụng đất theo đúng thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan Thuế, cụ thể: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký thông báo của cơ quan thuế, đối tượng trúng đấu giá phải nộp 50% tiền sử dụng đất phải nộp, trong vòng 60 ngày tiếp theo phải nộp 50% tiền sử dụng đất còn lại. Quá thời hạn theo thông báo của cơ quan Thuế (kể cả đợt nộp đầu tiên trong vòng 30 ngày kể từ ngày có thông báo của cơ quan Thuế), đối tượng trúng đấu giá không nộp đủ tiền sử dụng đất theo quy định này thì hủy kết quả đấu giá và thu hồi tiền cọc nộp ngân sách thành phố”.
Ngày 20/12/2016, Hợp đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất số 143/2016/HĐ- BĐG đối với lô đất số 15 và 16 phân khu B2.6 đã được ký kết giữa Trung tâm phát triển quỹ đất và Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thành phố, hợp đồng có quy định cho đối tượng trúng đấu giá phải nộp tiền sử dụng đất đúng thời hạn và quy định rõ hậu quả của việc không nộp tiền đúng thời hạn như đã nêu ở trên.
Ngày 19/01/2017, ông Nguyễn Xuân T đã nộp phiếu đăng ký đấu giá các lô đất nêu trên cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá, trong đó có cam kết: “Thanh toán tiền đúng theo thời hạn quy định. Nếu quá thời hạn theo thông báo của cơ quan Thuế... mà tôi không nộp đủ tiền sử dụng đất theo quy định thì bị hủy kết quả đấu giá và bị thu tiền đặt trước nộp ngân sách thành phố”.
Ngày 21/01/2017, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá đã tổ chức phiên đấu giá đối với các lô đất nêu trên và lập biên bản đấu giá tài sản theo quy định, trong đó có ghi rõ trách nhiệm nộp tiền sử dụng đất đúng thời hạn của người trúng đấu giá. Trên cơ sở kết quả đấu giá quyền sử dụng đất, ngày 02/3/2017 UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định số 1125/QĐ-UBND về việc công nhận kết quả đấu giá đối với 65 lô đất thuộc khu tái định cư N1, phường N1, quận S và 57 lô đất thuộc khu dân cư N1 2, phường M, quận S. Theo đó đã công nhận ông Nguyễn Xuân T trúng đấu giá 02 lô đất 15 và 16 phân khu B2.6 khu dân cư N1 2; tổng số tiền phải nộp cho cả 02 lô đất là 4.799.500.000 đồng. Ngày 23/3/2017, Cục Thuế thành phố Đà Nẵng đã ban hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất số 1437/TB-CT và 1438/TB-CT, thời hạn phải nộp tiền sử dụng đất đến ngày 21/4/2017 nộp 50% tiền sử dụng đất và đến ngày 20/6/2017 nộp 50% số tiền còn lại. Đợt đầu ông T nộp ngày 17/4/2017 (sớm 04 ngày); đợt 02 ông T nộp ngày 23/6/2017 (chậm 03 ngày).
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản: “Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” thì phương án đấu giá đối với khu đất nêu trên được UBND thành phố phê duyệt tại Quyết định số 6658/QĐ-UBND; Hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất số 143/2015/HĐ-BĐG quy định: “Tổ chức, cá nhân trúng đấu giá quyền sử dụng đất có trách nhiệm nộp tiền đúng thời hạn ghi trên Thông báo của cơ quan Thuế. Quá thời hạn thông báo của cơ quan Thuế... tổ chức, cá nhân trúng đấu giá không nộp đủ tiền sử dụng đất theo quy định này thì hủy kết quả đấu giá và thu hồi tiền đặt cọc nộp ngân sách thành phố”. Quy định này đã được niêm yết thông báo công khai cho người tham gia đấu giá biết (tại Điều 7 Hợp đồng đấu giá nêu trên quy định: Bên A yêu cầu bên B niêm yết, thông báo bán đất đấu giá tài sản đúng quy định và thông tin đầy đủ về tài sản bán đấu giá theo hợp đồng). Do đó, đây là thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản.
Ngày 16/11/2018, UBND thành phố ban hành Quyết định số 5447/QĐ- UBND về việc hủy kết quả đấu giá quyền sử dụng đất, cụ thể: Hủy kết quả đấu giá quyền sử dụng đất đối với các lô đất số 15 và 16 phân khu B2.6 Khu dân cư N1 2, phường M, quận S tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02/3/2017 của Chủ tịch UBND thành phố đối với ông Nguyễn Xuân T - bà Phạm Quỳnh G do không thực hiện đúng theo cam kết và quy chế của cuộc bán đấu giá, đồng thời thu tiền đặt cọc nộp vào ngân sách thành phố theo quy định.
Ngày 19/11/2018, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố đã thông báo cho ông T nội dung hủy kết quả tại Thông báo số 76/TB-TTPTQĐ.
Ngày 23/11/2018, UBND thành phố có Công văn số 9125/UBND-KT về việc thông tin báo chí việc hủy quyết định công nhận kết quả đấu giá quyền sử dụng đất của Công ty cổ phần VIPICO và các trường hợp tương tự thành phố Đà Nẵng, trong đó có trường hợp ông Nguyễn Xuân T.
Như vậy, việc hủy bỏ kết quả đấu giá đối với trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Xuân T là phù hợp với quy định tại Phương án đấu giá quyền sử dụng đất, Quy chế của cuộc bán đấu giá và quy định của UBND thành phố về đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố (kèm theo danh mục và các hồ sơ liên quan). UBND thành phố đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T về việc hủy bỏ Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 của UBND thành phố Đà Nẵng.
3. Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Cục Thuế thành phố Đà Nẵng trình bày:
Cục Thuế thành phố nhận được tờ trình số 1370/TTr-TTPTQĐ ngày 16/3/2017 của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng và Quyết định số 1125/QĐ-UBNĐ ngày 02/3/2017 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc công nhận kết quả đấu giá đối với 65 lô đất thuộc Khu tái định cư N1, quận S và 57 lô đất thuộc Khu dân cư N1 2, phường M, quận S. Căn cứ hồ sơ kèm theo Tờ trình nêu trên, Cục Thuế thành phố đã ban hành 02 Thông báo nộp tiền sử dụng đất số 1437/TB-CT và 1438/TB-CT cùng ngày 23/3/2017 đối với ông Nguyễn Xuân T và bà Phạm Quỳnh G (mã số thuế 8012264107).
Tại các Thông báo của cơ quan Thuế đã nêu rõ thời hạn phải nộp tiền sử dụng đất trúng đấu giá, quá thời hạn theo thông báo của cơ quan Thuế, nếu đơn vị không nộp đủ số tiền sử dụng đất phải nộp vào Ngân sách nhà nước (kể cả đợt nộp đầu tiên trong vòng 30 ngày kể từ ngày có thông báo của cơ quan Thuế) thì hủy kết quả đấu giá và thu hồi tiền cọc nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên ông Nguyễn Xuân T, bà Phạm Quỳnh G thực hiện nộp tiền trúng đấu giá vào ngân sách nhà nước không đúng thời hạn quy định tại các Thông báo nêu trên.
Ngày 16/11/2018, UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số 5447/QĐ-UBND hủy kết quả đấu giá quyền sử dụng đất đối với các lô đất số 15, 16 tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02/3/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng.
Căn cứ Quyết định 5447/QĐ-UBND nêu trên và Thông báo số 76/TB- TTPTQĐ ngày 19/11/2018 của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng về việc liên hệ làm thủ tục nhận lại tiền đấu giá quyền sử dụng đất đối với 02 lô đất 15 và 16 Phân khu B2.6, Cục Thuế thành phố đã ban hành Công văn số 4600/CT- QLĐ ngày 24/11/2018 (lần 1), Công văn số 04/CT-QLĐ ngày 02/01/2019 (lần 2) hướng dẫn và đề nghị ông Nguyễn Xuân T, bà Phạm Quỳnh G lập giấy đề nghị hoàn trả khoản thu ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc cơ quan Thuế căn cứ các Quyết định của UBND thành phố Đà Nẵng ban hành các Thông báo nộp tiền sử dụng đất trúng đấu giá theo đúng trình tự, quy định của pháp luật thuế hiện hành đã nêu rõ thời hạn nộp, quá thời hạn thì hủy kết quả đấu giá. Việc ông Nguyễn Xuân T, bà Phạm Quỳnh G tự ý nộp tiền vào ngân sách nhà nước sau thời hạn nộp theo thông báo của cơ quan Thuế thuộc về trách nhiệm của ông T, bà G.
3.2. Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố Đà Nẵng trình bày:
Do người trúng đấu giá thực hiện không đúng quy định về nộp tiền trúng đấu giá nên UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 hủy kết quả đấu giá quyền sử dụng đối với các lô đất số 15 và 16. Chính vì vậy, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố không tiến hành làm thủ tục giao quyền sử dụng đất tại các lô đất 15 và 16 cho Ông Nguyễn Xuân T.
4. Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2019/HC-ST ngày 28 tháng 11 năm 2019, Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ Điều 55 Luật Đất đai; Điều 1 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai; Điều 18 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất; khoản 3 Điều 12, khoản 4 Điều 15 Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày 22/6/2016 của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên & Môi trường quy định về hồ sơ và trình tự, thủ tục tiếp nhận, luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai của người sử dụng đất; Thông tư số 76/2014/TT- BTC ngày 16/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn một số Điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất; căn cứ Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T về việc “Khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định hành chính”.
Tuyên hủy toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật: Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc hủy Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02/03/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng về việc công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với các lô đất số 15 và 16 Phân khu B2.6 thuộc phường N1, quận S, thành phố Đà Nẵng cho ông Nguyễn Xuân T, bà Phạm Quỳnh G.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ chịu án phí hành chính sơ thẩm và phổ biến quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
5. Kháng cáo:
Ngày 18/12/2019, người bị kiện là UBND thành phố Đà Nẵng có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm: Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ, đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính; những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa đều đã có văn bản trình bày ý kiến và có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người này là đúng quy định tại Điều 225 của Luật Tố tụng Hành chính.
Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của các đương sự; các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và Tòa án thu thập trong quá trình tố tụng đã có đủ cơ sở xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T, hủy toàn bộ Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc hủy Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02/3/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng là có căn cứ, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính, bác kháng cáo của người bị kiện UBND thành phố Đà Nẵng và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm định tại phiên tòa; ý kiến của các đương sự, của người đại diện hợp pháp và của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự; ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại thời điểm UBND thành phố Đà Nẵng triển khai việc tổ chức đấu giá lô đất số 15 và 16 (năm 2016 và 2017), tại các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về việc đấu giá quyền sử dụng đất, thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất cụ thể như sau:
1. Trước thời điểm ngày 01/7/2017, việc bán đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản. Đến khi Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2017), tại Luật này có các quy định liên quan đến việc đấu giá quyền sử dụng đất, hủy kết quả đấu giá như sau:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Luật này quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục đấu giá tài sản; đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá tài sản; xử lý vi phạm, hủy kết quả đấu giá tài sản, bồi thường thiệt hại; quản lý nhà nước về đấu giá tài sản.
Điều 2. Đối tượng áp dụng ... 3. Người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, người mua được tài sản đấu giá...
Điều 4. Tài sản đấu giá 1. Tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá, bao gồm:
... c) Tài sản là quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
Điều 72. Hủy kết quả đấu giá tài sản Kết quả đấu giá tài sản bị hủy trong các trường hợp sau đây: 1. Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;”...
2. Tại khoản 2 Điều 117 Luật Đất đai năm 2013 quy định về nguyên tắc đấu giá quyền sử dụng đất: “Việc đấu giá quyền sử dụng đất phải đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về đấu giá tài sản”.
3. Tại Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ “quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Đất đai” (sau đây viết tắt là Nghị định số 43/NĐ-CP) quy định:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh 2. Việc quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật Đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; giá đất; thu tiền sử dụng đất; thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được thực hiện theo các Nghị định khác của Chính phủ.
Điều 68. Trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào mục đích khác:
...5. Trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất đã giải phóng mặt bằng đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất được quy định như sau:
... c) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá;
d) Sau khi người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, cơ quan tài nguyên và môi trường trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận, ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất; tổ chức giao đất trên thực địa và trao Giấy chứng nhận; chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ sở dữ liệu đất đai, hồ sơ địa chính.
Trường hợp người trúng đấu giá không nộp đủ tiền theo đúng yêu cầu thì cơ quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hủy quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá”.
4. Tại Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất (sau đây viết tắt là Nghị định số 45/NĐ-CP) có quy định:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Nghị định này quy định về thu tiền sử dụng đất trong trường hợp:
1. Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất...
Điều 14. Trình tự xác định, thu nộp tiền sử dụng đất 4. Thời hạn nộp tiền sử dụng đất: a) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký Thông báo của cơ quan thuế, người sử dụng đất phải nộp 50% tiền sử dụng đất theo Thông báo.
b) Trong vòng 60 ngày tiếp theo, người sử dụng đất phải nộp 50% tiền sử dụng đất còn lại theo Thông báo.
c) Quá thời hạn quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản này, người sử dụng đất chưa nộp đủ số tiền sử dụng đất theo Thông báo thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền chưa nộp theo mức quy định của pháp luật về quản lý thuế trừ trường hợp có đơn xin ghi nợ tiền sử dụng đất đối với những trường hợp được ghi nợ.
Điều 17. Trách nhiệm của các cơ quan và người sử dụng đất trong việc xác định và tổ chức thu tiền sử dụng đất ...5. Người sử dụng đất:
b) Nộp tiền sử dụng đất theo đúng thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan thuế. c) Quá thời hạn nộp tiền sử dụng đất theo Thông báo của cơ quan thuế thì phải nộp tiền chậm nộp theo quy định tại Điều 18 Nghị định này.
Điều 18. Xử lý chậm nộp Trường hợp chậm nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước thì người sử dụng đất phải nộp tiền chậm nộp. Việc xác định tiền chậm nộp tiền sử dụng đất thực hiện theo mức quy định của Luật Quản lý thuế...”.
5. Tại Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày 22/6/2016 của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường “quy định về hồ sơ và trình tự, thủ tục tiếp nhận, luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai của người sử dụng đất” có quy định:
“Điều 15. Quy trình luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai của người sử dụng đất trong trường hợp được giao đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thông qua hình thức đấu giá ...3. Cơ quan thuế xác định số tiền trúng đấu giá và các Khoản nghĩa vụ tài chính khác phải nộp để thông báo cho người trúng đấu giá,...
4. Người trúng đấu giá có trách nhiệm nộp tiền tại Kho bạc nhà nước (hoặc cơ quan được Kho bạc nhà nước ủy nhiệm thu) theo đúng thời hạn tại Thông báo do cơ quan thuế ban hành.
Trường hợp nộp chậm so với thời hạn quy định tại Thông báo của cơ quan thuế thì phải nộp tiền chậm nộp theo quy định của pháp luật quản lý thuế...”.
[2] Xét kháng cáo của người bị kiện cho rằng, việc hủy bỏ kết quả đấu giá đối với trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Xuân T là phù hợp với quy định tại Điều 68 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ, khoản 1 Điều 72 của Luật Đấu giá tài sản năm 2016 do ông T không thực hiện theo đúng cam kết tại Phiếu đăng ký tham gia đấu giá, Quy chế của cuộc đấu giá, Phương án đấu giá quyền sử dụng đất tại Quyết định số 3721/QĐ-UBND ngày 10/6/2016 và Quyết định số 6658/QĐ-UBND ngày 30/9/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng thì thấy: [2.1] Trên cơ sở hệ thống các quy định tại các văn bản pháp luật được trích dẫn tại mục [1] nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy đối với trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất, chậm nộp tiền trúng đấu giá thì pháp luật đã có quy định rất đầy đủ, cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật, không có sự xung đột hoặc không có quy định. Cụ thể là:
Đối với trình tự, thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất; công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất; giao đất đối với trường hợp thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất thì phải thực hiện theo quy định tại Chương VIII của Luật Đất đai năm 2013, Điều 68 Nghị định số 43/NĐ-CP và các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản.
Đối với việc thu nộp tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá thì phải được thực hiện theo các quy định tại Nghị định số 45/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT và hướng dẫn tại Thông tư số 76/2014/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Trường hợp người trúng đấu giá thực hiện nộp đủ số tiền phải nộp theo các quy định của pháp luật nêu trên (nếu nộp chậm so với thời hạn quy định tại Thông báo của cơ quan thuế thì phải nộp tiền chậm nộp theo quy định của pháp luật quản lý thuế) thì được Nhà nước cấp GCNQSD đất và giao đất theo quy định tại đoạn 1 điểm d khoản 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ; trường hợp “người trúng đấu giá không nộp đủ tiền theo đúng yêu cầu”, có nghĩa là người trúng đấu giá không nộp tiền sử dụng đất do không muốn nhận đất, hoặc cố tình dây dưa không hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật (không nộp hoặc không nộp đủ số tiền sử dụng đất phải nộp; trường hợp nộp chậm số tiền sử dụng đất so với thời hạn quy định tại thông báo của cơ quan thuế mà không nộp hoặc không nộp đủ số tiền chậm nộp theo quy định của pháp luật quản lý thuế) thì cơ quan tài nguyên và môi trường trình UBND cấp có thẩm quyền hủy quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá theo quy định tại đoạn 2 điểm d khoản 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ.
Đối chiếu với trường hợp khiếu kiện của ông Nguyễn Xuân T thì thấy: Ngày 02/3/2017, UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số 1125/QĐ- UBND công nhận ông Nguyễn Xuân T đã đấu giá trúng lô đất số 15 và 16. Ngày 16/3/2017, Văn phòng Đăng ký Đất đai thành phố Đà Nẵng ban hành Phiếu chuyển thông tin địa chính đến Cục Thuế thành phố Đà Nẵng để xác định nghĩa vụ tài chính. Ngày 23/3/2017, Cục Thuế thành phố Đà Nẵng đã ban hành các Thông báo số 1437/TB-CT và 1438/TB-CT về nộp tiền sử dụng đất với thời hạn: đợt 1 phải nộp 50% tiền sử dụng đất vào ngày 21/4/2017; đợt 2 phải nộp 50% tiền sử dụng đất còn lại vào ngày 20/6/2017. Sau khi nhận được các Thông báo nộp tiền sử dụng đất của Cục Thuế thành phố Đà Nẵng, ngày 17/4/2017 ông T đã nộp số tiền phải nộp đợt 1 (sớm 04 ngày); ngày 23/6/2017 ông T đã nộp đủ số tiền phải nộp đợt 2 (chậm 03 ngày) và đến ngày 26/10/2018, ông T đã nộp số tiền 2.159.775 đồng là tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế. Như vậy, ông T đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo đúng quy định của pháp luật hiện hành, có đủ điều kiện được các cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSD đất và giao đất theo quy định tại đoạn 1 điểm d khoản 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ.
[2.2] Về các quy định của UBND thành phố Đà Nẵng về đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố:
Tại Quyết định số 6658/QĐ-UBND ngày 30/9/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc sửa đổi nội dung điểm 4 Mục III Phương án đấu giá quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 3631/QĐ-UBND ngày 09/6/2016 của UBND thành phố về việc phê duyệt Phương án đấu giá quyền sử dụng đất có nội dung: "Quá thời hạn theo Thông báo của cơ quan Thuế..., tổ chức, cá nhân trúng đấu giá không nộp đủ tiền sử dụng đất theo quy định này thì hủy kết quả đấu giá và thu hồi tiền cọc nộp ngân sách thành phố”.
Trong các căn cứ để ban hành Quyết định trên có Nghị định số 45/NĐ-CP, Quyết định số 25/2014/QĐ-UBND ngày 18/8/2014 và Quyết định số 01/2015/QĐ- UBND ngày 15/01/2015 của UBND thành phố Đà Nẵng “Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế bán đấu giá quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 25/2014/QĐ-UBND ngày 18/8/2014 của UBND thành phố Đà Nẵng” (sau đây viết tắt là Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND).
Theo trích dẫn nội dung Nghị định số 45/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 01/7/2014) tại mục [1] nêu trên chỉ có quy định trường hợp quá thời hạn nộp tiền sử dụng đất theo thông báo của cơ quan thuế thì người trúng đấu giá phải nộp tiền chậm nộp mà không có quy định hủy kết quả đấu giá. Như vậy, nội dung tại Phương án đấu giá nêu trên là căn cứ vào nội dung tại đoạn cuối khoản 3 Điều 1 Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND của UBND thành phố Đà Nẵng: “Tổ chức, cá nhân trúng đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất có trách nhiệm nộp tiền theo đúng thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan Thuế. Quá thời hạn theo thông báo của cơ quan Thuế (kể cả đợt nộp đầu tiên trong vòng 30 ngày kể từ ngày có thông báo của cơ quan Thuế), tổ chức, cá nhân trúng đấu giá không nộp đủ tiền sử dụng đất theo quy định này thì hủy kết quả đấu giá và thu hồi tiền cọc nộp ngân sách thành phố”.
Căn cứ vào quy định tại Điều 6 của Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử xét thấy tại Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND, UBND thành phố Đà Nẵng đã căn cứ vào Nghị định số 43/2014/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 26 Quyết định số 25/2014/QĐ-UBND ngày 18/8/2014 của UBND thành phố Đà Nẵng với nội dung như trên, trong khi ngay tại Điều 68 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP không có quy định thu hồi tiền cọc nộp ngân sách nhà nước. Do đó, nội dung quy định trường hợp người trúng đấu giá chậm nộp tiền sử dụng đất thì hủy kết quả đấu giá và thu hồi tiền cọc nộp ngân sách thành phố tại Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND là chưa đầy đủ, có mâu thuẫn với quy định tại Nghị định số 45/2014/NĐ-CP và các Thông tư hướng dẫn thi hành các Nghị định này như đã trích dẫn tại mục [1] nêu trên (đều quy định trường hợp người trúng đấu giá chậm nộp tiền sử dụng đất thì phải nộp tiền chậm nộp theo quy định của pháp luật quản lý thuế; không có quy định phải chịu hủy kết quả đấu giá); đồng thời, chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 14 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND đã được xác định hết hiệu lực từ ngày 01/7/2017 theo Quyết định số 3101/QĐ-UBND ngày 19/7/2018 của UBND thành phố Đà Nẵng. Do đó, Hội đồng xét xử không thực hiện việc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành Quyết định này xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại các Điều 6, 111, 112, 113, 114 của Luật Tố tụng hành chính, mà áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn để giải quyết vụ án.
[2.3] Đối với nội dung kháng cáo của UBND thành phố Đà Nẵng cho rằng ông Nguyễn Xuân T không nộp đủ số tiền đã cam kết tại Phương án đấu giá, Quy chế của cuộc đấu giá, Biên bản đấu giá tài sản, Phiếu đăng ký tham gia đấu giá nên thuộc trường hợp hủy kết quả đấu giá tài sản quy định khoản 1 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản: Tại Điều 2 Luật Đấu giá tài sản quy định đối tượng áp dụng Luật này đã phân định rõ “người tham gia đấu giá” và “người trúng đấu giá” là hai chủ thể khác nhau. Khi ông T tham gia đấu giá thì ông T là “người tham gia đấu giá”, về nguyên tắc ông T phải thực hiện đầy đủ, đúng các nội dung tại Phương án đấu giá, Quy chế đấu giá và cam kết tại Phiếu đăng ký tham gia đấu giá, Biên bản đấu giá tài sản là nộp đủ tiền đúng hạn. Tuy nhiên, kể từ thời điểm UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02/3/2017 về việc công nhận kết quả đấu giá thì ông T đã được công nhận là “người trúng đấu giá” và kể từ thời điểm đó đến nay ông T không có bất kỳ một thỏa thuận, cam kết nào về việc hủy kết quả đấu giá, mà ngược lại ông T đã nộp đủ số tiền sử dụng đất, số tiền chậm nộp và đề nghị UBND thành phố Đà Nẵng cùng các cơ quan có thẩm quyền sớm hoàn thành các thủ tục để được giao đất. Do đó, kháng cáo của người bị kiện cho rằng ông Nguyễn Xuân T không nộp đủ số tiền đã thống nhất và cam kết tại Phương án đấu giá quyền sử dụng đất được phê duyệt tại Quyết định số 3721/QĐ-UBND ngày 10/6/2016 và Quyết định số 6658/QĐ-UBND ngày 30/9/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng, Quy chế của cuộc đấu giá, Biên bản đấu giá tài sản và Phiếu đăng ký tham gia đấu giá nên thuộc trường hợp hủy kết quả đấu giá tài sản quy định khoản 1 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 là không đúng pháp luật, không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.4] Trên cơ sở những đánh giá, phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Việc ông Nguyễn Xuân T chậm nộp tiền trúng đấu giá quyền sử dụng đất thuộc trường hợp phải áp dụng chế tài nộp tiền chậm nộp theo mức quy định của pháp luật về quản lý thuế; ông T đã nộp đầy đủ số tiền chậm nộp, có đủ điều kiện được các cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSD đất và giao đất theo quy định tại đoạn 1 điểm d khoản 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, tại Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 của UBND thành phố Đà Nẵng lại chỉ căn cứ vào Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ- CP của Chính phủ (đoạn 2 điểm d khoản 5 Điều 68) để quyết định hủy kết quả đấu giá quyền sử dụng đất đối với các lô đất 15, 16, phân khu B2.6 tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND, đồng thời thu hồi tiền đặt cọc nộp vào ngân sách thành phố với lý do ông T không thực hiện theo đúng cam kết tại Phiếu đăng ký tham gia đấu giá, Phương án đấu giá tại Quyết định số 3721/QĐ-UBND ngày 10/6/2016 và Quyết định số 6658/QĐ-UBND ngày 30/9/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng là không đúng quy định của pháp luật, vì chưa có sự xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật đang được giải quyết. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T, hủy toàn bộ Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16/11/2018 của UBND thành phố Đà Nẵng là có căn cứ, đúng pháp luật; kháng cáo của UBND thành phố Đà Nẵng là không có căn cứ, không phù hợp với các quy định của pháp luật nên không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[3] Ngoài ra, khi xét xử vụ án Hội đồng xét xử còn nhận thấy: Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu hủy quyết định hành chính trái pháp luật, nhưng lại chưa tuyên buộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, đồng thời kiến nghị cách thức xử lý đối với quyết định hành chính đã bị hủy là có thiếu sót, chưa bảo đảm đầy đủ các nội dung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính. Xét thấy thiếu sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm không làm ảnh hưởng đến kết quả việc giải quyết, xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử khắc phục bổ sung vào Bản án phúc thẩm để bảo đảm bản án của Tòa án được ban hành đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên căn cứ vào khoản 1 Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính và khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, người kháng cáo phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ vào Điều 55, khoản 2 Điều 177 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 1, điểm d khoản 5 Điều 68 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai; các Điều 14, 17, 18 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất; khoản 4 Điều 15 Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày 22/6/2016 của Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ và trình tự, thủ tục tiếp nhận, luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai của người sử dụng đất; Thông tư số 76/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn một số Điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ;
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348, khoản 1 Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 32, khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Bác kháng cáo của người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2019/HC-ST ngày 28 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T về việc “Khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định hành chính”: Hủy toàn bộ Quyết định số 5447/QĐ-UBND ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc “Hủy kết quả đấu giá quyền sử dụng đất đối với các lô đất số 15 và 16, phân khu B2.6 tại Khu dân cư N1 2, phường M, quận S tại Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02 tháng 3 năm 2017 của Chủ tịch UBND thành phố”.
Buộc Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật đối với Quyết định số 1125/QĐ-UBND ngày 02 tháng 3 năm 2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với các lô đất số 15 và 16, phân khu B2.6 tại Khu dân cư N1 2, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng cho ông Nguyễn Xuân T và bà Phạm Quỳnh G.
2. Án phí hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng; hoàn trả cho ông Nguyễn Xuân T số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 001907 ngày 10/9/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng.
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng; được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002539 ngày 26/12/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 25/6/2020.
Bản án 80/2020/HC-PT ngày 25/06/2020 về khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định hành chính
Số hiệu: | 80/2020/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 25/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về