TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 79/2020/DS-ST NGÀY 05/06/2020 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 523/2019/TLST- DS ngày 06 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp đòi lại tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2020/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 4 năm 2020 và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 223/2020/QQD-ST ngày 08 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Từ Tuấn G, sinh năm 1988; cư trú tại khóm B, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thế D, sinh năm 1995; cư trú tại khóm B, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện của anh Từ Tuấn G và quá trình tố tụng tại Tòa án anh Từ Tuấn G trình bày: Tại Bản án sơ thẩm số 31/2015/HNGĐ –ST ngày 08/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử phân chia tài sản của anh Từ Tuấn G và chị Nguyễn Thế D, theo đó anh Từ Tuấn G quản lý 106 chỉ vàng 24k anh được nhận 100 chỉ vàng 24k và có trách nhiệm giao cho chị D 06 chỉ vàng 24k, chị D được nhận 150 chỉ vàng 24k cùng 60 chỉ vàng 18k hiện chị D quản lý và 06 chỉ vàng 24k do anh Từ Tuấn G giao.
Do không đồng ý với Bản án sơ thẩm nên chị D làm đơn kháng cáo và tại Bản án phúc thẩm số 31/2015/HNGĐ-PT ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử buộc anh Từ Tuấn G giao cho chị D 53 chỉ vàng 24k do anh quản lý.
Sau khi án có hiệu lực anh Từ Tuấn G đã thực hiện nghĩa vụ giao cho chị D 53 chỉ vàng 24k tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời theo Bản án phúc thẩm đã tuyên. Sau đó, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị đối với Bản án phúc thẩm số 31/2015/HNGĐ-PT ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau. Đến ngày 27/02/2019, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 24/2019/HNGĐ-GĐT chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm số 31/2015/HNGĐ-PT ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 31/2015/HNGĐ –ST ngày 08/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
Anh đã thực hiện nghĩa vụ giao cho chị D 53 chỉ vàng 24k nên anh yêu cầu được đối trừ nghĩa vụ của anh theo Bản án sơ thẩm là 06 chỉ vàng 24k, còn lại anh yêu cầu chị D phải trả cho anh 47 chỉ vàng 24k.
Đối với chị Nguyễn Thế D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt và không có ý kiến phản hồi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Vụ việc theo yêu cầu của anh Từ Tuấn G được Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Chị Nguyễn Thế D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị D.
[3] Vụ việc yêu cầu chia tài sản giữa anh Từ Tuấn G và chị Nguyễn Thế D đã được Tòa án các cấp giải quyết và sau khi có Bản án phúc thẩm số 31/2015/HNGĐ- PT ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau thì anh Từ Tuấn G đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao trả tài sản cho chị D. Tuy nhiên, Quyết định giám đốc thẩm số 24/2019/HNGĐ-GĐT ngày 27/02/2019 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã hủy Bản án phúc thẩm số 31/2015/HNGĐ-PT ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 31/2015/HNGĐ –ST ngày 08/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời nên anh Từ Tuấn G chỉ có nghĩa vụ giao cho chị D 06 chỉ vàng 24k. Căn cứ giấy xác nhận kết quả thi hành án số 59/GXH-THADS ngày 24/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời xác định anh Từ Tuấn G đã giao cho chị Nguyễn Thế D 53 chỉ vàng 24k và đối chiếu với nghĩa vụ anh Từ Tuấn G phải thực hiện giao cho chị D chỉ có 06 chỉ vàng 24k. Như vậy, anh Từ Tuấn G giao cho chị D 53 chỉ vàng 24k là vượt quá so với nghĩa vụ anh Từ Tuấn G phải thực hiện, do đó anh Từ Tuấn G có quyền đòi chị D trả lại số tài sản chênh lệch theo quy định tại Điều 166 của Bộ luật Dân sự và số tài sản chênh lệch anh Từ Tuấn G đã giao cho chị D so với yêu cầu phải thực hiện được xác định là 47 chỉ vàng 24k (53 chỉ vàng 24k – 06 chỉ vàng 24k) nên buộc chị D có nghĩa vụ giao trả lại cho anh Từ Tuấn G 47 chỉ vàng 24k là phù hợp.
[4] Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn chị Nguyễn Thế D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch trên tổng số tài sản phải giao trả cho nguyên đơn: 47 chỉ vàng 24k (vàng 24k tại thời điểm xét xử = 4.710.000 đồng/chỉ) X 5% = 11.068.500 đồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Phần tạm ứng án phí của anh Từ Tuấn G dự nộp được nhận lại.
[5] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 166 của Bộ luật Dân sự; Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu của anh Từ Tuấn G khởi kiện đối với chị Nguyễn Thế D về việc đòi lại tài sản.
Buộc chị Nguyễn Thế D có nghĩa vụ trả cho anh Từ Tuấn G 47 chỉ vàng 24k. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch chị Nguyễn Thế D phải chịu 11.068.500 đồng. Phần tạm ứng án phí anh Từ Tuấn G đã nộp 4.794.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002950 ngày 06/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời anh Từ Tuấn G được nhận lại.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 79/2020/DS-ST ngày 05/06/2020 về tranh chấp đòi lại tài sản
Số hiệu: | 79/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về