TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 02/2018/DSST NGÀY 27/02/2018 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 50/2017/TLST-DS ngày 24/10/2017 về tranh chấp kiện đòi tài sản theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2018/QĐXXST-DS ngày 15/01/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Dương Thị X, sinh năm 1953 (Có mặt).
Nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc
Bị đơn: Ông Đào Văn B, sinh năm 1970 (Vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Duy S, sinh năm 1951 (Vắng mặt)
Nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 20/10/2017 và đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 27/12/2017 cùng với lời khai tiếp theo tại Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, bà Dương Thị X là nguyên đơn trình bày:
Vào khoảng tháng 1, 2 năm 2013 ông B và ông H đến nhà bà để hỏi vay 100.000.000 đồng, do số tiền quá nhiều nên vợ chồng bà chỉ cho ông B vay 70.000.000 đồng. Tuy nhiên, do ông B nhận trả nợ thay cho ông H 50.000.000 đồng mà ông H,bà E vay của bà trước đó. Nên bà đưa thêm tiền thành 70.000.000 đồng. Ông B là người trực tiếp biên nhận nợ và ký giấy, ông H chỉ là người làm chứng. Nhưng từ đó cho đến nay ông B cũng không trả được tiền nợ gốc cho bà. Nay bà yêu cầu ông B phải trả ngay cho vợ chồng bà 70.000.000 đồng tiền gốc, còn tiền lãi bà xin rút yêu cầu.
Bị đơn ông Đào Văn B trình bày: Ông thừa nhận bà X trình bày đúng về khoản vay tiền của bà X mà ông, ông S đã thống nhất thỏa thuận, nay ông có trách nhiệm trả nợ cho bà X tổng cộng là 70.000.000 đồng tiền gốc. Nhưng vì kinh tế gặp khó khăn ông xin trả nợ dần cho bà X tiền gốc, tiền lãi cho ông xin.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Duy S trình bày: Ông nhất trí như ý kiến của bà X, khi vay tiền ông B viết giấy ký nợ với bà X, ông và ông H là người làm chứng cho ông B. Nay ông B nhất trí trả nợ cho vợ chồng ông số tiền nợ gốc ông không có ý kiến gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y phát biểu quan điểm:
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, Tòa án xác định đúng mối quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách của người tham gia tố tụng, bảo đảm thời hạn chuẩn bị xét xử.
Về đường lối giải quyết vụ án: Bà Dương Thị X yêu cầu Tòa án buộc ông Đào Văn B phải trả cho vợ chồng bà X 70.000.000 đồng tiền gốc, bà xin rút yêu cầu tính lãi số tiền trên. Xét thấy yêu cầu của vợ chồng bà X là tự nguyện và phù hợp với pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhấp nhận yêu cầu của bà Dương Thị X.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
Vụ án tranh chấp kiện đòi tài sản giữa bà Dương Thị X với ông Đào Văn B như hai bên cùng thừa nhận, có vợ chồng ông H và ông S là người làm chứng. Ông B vay tiền có viết giấy biên nhận cho bà X và ông S, tổng số tiền vay là 70.000.000 đồng tiền gốc. Quá trình trả nợ ông B chỉ trả tiền lãi cho vợ chồng bà X đến hết năm 2013, còn số tiền gốc chưa trả. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà X tự nguyện không yêu cầu ông B phải trả lãi, bà chỉ yêu cầu ông B phải trả cho vợ chồng bà 70.000.000 đồng tiền gốc. Ông B cam kết trả nợ dần số tiền gốc cho bà nhưng ông không đưa ra một phương án nào để trả nợ dần cho bà, nên yêu cầu của ông không được chấp nhận. Nay cần buộc ông Đào Văn B phải trả cho bà Dương Thị X, ông Nguyễn Duy S 70.000.000 đồng là có căn cứ và phù hợp với pháp luật cần được chấp nhận.
Bà Dương Thị X không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí.
Ông Đào Văn B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Buộc ông Đào Văn B phải trả cho vợ chồng bà Dương Thị X 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà Dương Thị X có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Đào Văn B không nộp số tiền trên, thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền trên theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Bà Dương Thị X không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà X 1.750.000đ (Một triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: AA/2016/0001893 ngày 24/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Y.
Ông Đào Văn B phải chịu 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngay bản án được giao hoặc niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7a, 7b; 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 02/2018/DSST ngày 27/02/2018 về tranh chấp kiện đòi tài sản
Số hiệu: | 02/2018/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/02/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về