Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 79/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 19 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 98/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019, về việc “ Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung’’. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2019/QĐ-ST ngày 14/6/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 84/2019/QĐ-ST ngày 28/6/2019; Thông báo thời gian mở lại phiên tòa số 03/2019/TB-TA ngày 02/7/2019 giữa:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hữu Năm, sinh năm 1966.

Nơi cư trú: Xóm Tr, thôn T, xã Th, huyện Th1, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Chị Đặng Thị V, sinh năm 1977.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Xóm Tr, thôn T, xã Th, huyện Th1, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang cư trú tại Đài Loan.

(Anh N có mặt, chị V vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, biên bản lấy lời khai - Nguyên đơn anh Nguyễn Hữu N trình bầy: Anh và chị Đặng Thị V chung sống với nhau từ 26/6/1995, tuy nhiên thời điểm đó chị V chưa đủ tuổi kết hôn nên anh và chị V chưa đăng ký kết hôn nhưng gia đình 2 bên vẫn tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau ngày cưới vợ chồng về chung sống với bố mẹ anh tại thôn T, xã Th, huyện Th1, tỉnh Hải Dương. Đến ngày 20/4/2001 anh và chị Đặng Thị V đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Th, huyện Th1, Hải Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2003 thì chị V đi lao động tại Đài Loan, đã về nước 2 lần, 1 lần là năm 2006 và năm 2009. Lần đầu chị V về thăm gia đình được 2 tuần, lần sau về được hơn 1 tháng. Năm 2009 khi chị V về nước, nhưng lại đòi đi tiếp anh không cho đi nhưng chị V vẫn cương quyết đi, do vậy từ đó đến nay vợ chồng mâu thuẫn, chị V không có liên lạc gì với ông, ông cũng không có tin tức gì của chị V. Anh không xuống gia đình bố mẹ đẻ của chị V để hỏi tin tức của chị V. Anh xác định chị V hiện vẫn đang sinh sống làm việc bên Đài Loan nhưng địa chỉ cụ thể của chị Vinh anh không biết.

Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị V không còn quan tâm đến anh và các con. Cuộc sống giữa anh và chị V đã không còn liên quan đến nhau. Do vậy, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị V.

Về con chung: Vợ chồng có 2 con chung là Nguyễn Thị H, sinh ngày 11/11/1995, cháu hiện đã đi học tại Nhật Bản và đã trưởng thành nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Cháu thứ hai là Nguyễn Hữu V1, sinh ngày 06/02/2002, hiện nay đang sống với anh. Nếu ly hôn anh đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Hữu V1 cho anh nuôi dưỡng và anh không yêu cầu chị V phải đóng góp tiền cấp dưỡng tiền nuôi con với anh.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

-Trong quá trình giải quyết vụ án do anh N không cung cấp được địa chỉ của chị V đang lao động tại Đài Loan, nên Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã về xác minh tại gia đình chị V, đồng thời yêu cầu gia đình cung cấp địa chỉ của chị V ở Đài Loan, nhưng gia đình không cung cấp được địa chỉ của chị V. Tòa án cũng đã tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bà Phạm Thị Ch là mẹ đẻ của chị V, đồng thời tiến hành niêm yết các băn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, bà Ch xác định đã thông tin cho chị V biết, chị V có quan điểm đồng ý ly hôn với anh N, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Chị V cũng nhất trí để anh N nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Hữu V1.

Tại phiên tòa hôm nay, Anh N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị V, về con chung anh đề nghị được nuôi cháu Nguyễn Hữu V1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

- Về thụ lý vụ án, xác định quan hệ tranh chấp, xác định thẩm quyền: Thẩm phán chấp hành đúng quy định của BLTTDS.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử và việc tuân thu thập tài liệu, chứng cứ: Thẩm phán và HĐXX chấp hành chưa đúng quy định tại Điều 476 – BLTTDS.

Trong vụ án anh N không cung cấp được địa chỉ của chị V tại Đài Loan. Vì vậy, đề nghị HĐXX cần tiếp tục yêu cầu anh N cung cấp địa chỉ của chị V đến khi kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử.

- Viện kiểm sát không phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

- Nguyên đơn: chấp hành quy định của BLTTDS.

- Bị đơn: Không chấp hành quy định của của BLTTDS.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Năm không cung cấp được địa chỉ của chị V lao động tại Đài Loan. Theo hướng dẫn Công văn 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án hai lần yêu cầu gia đình chị V cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được, đồng thời Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Nên áp dụng công văn 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Chị V vắng mặt lần thứ hai. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị V.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Hữu N và chị Đặng Thị V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 20/4/2001 tại UBND xã Th, huyện Th1, tỉnh Hải Dương, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc dến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn lý do chị V muốn tiếp tục đi lao động tại Đài Loan anh N không đồng ý. Từ năm 2009 đến nay chị V không về nước cũng không quan tâm đến anh N, anh N không liên hệ với chị V cũng như gia đình chị V. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn và có đơn xin ly hôn chị V. Về phía chị V cũng đã được gia đình cho biết Tòa án đang giải quyết ly hôn theo đơn xin ly hôn của anh N. Chị V cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh N.

- Về con chung: anh Nguyễn Hữu N và chị Đặng Thị V có 02 con chung là Nguyễn Thị H, sinh ngày 11/11/1995, cháu hiện đã đi học tại Nhật Bản và đã trưởng thành nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Cháu thứ hai là Nguyễn Hữu V1, sinh ngày 06/02/2002, hiện nay đang sống với anh. Ly hôn anh N có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu chị Vinh phải cấp dưỡng. Chị V cũng nhất trí với quan điểm của anh N, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu V. Do vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của anh N. Chấp nhận sự tự nguyện của anh N không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng không xem xét.

[3].Về án phí: Anh N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Hữu N được ly hôn chị Đặng Thị V.

2.Về con chung: Giao con chung Nguyễn Hữu V1, sinh ngày 06/02/2002 cho anh N nuôi dưỡng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh N không yêu cầu chị V phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Chị V được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Hữu N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0006098 ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại chi Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Anh Năm đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Hữu N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Đặng Thị V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:79/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;