TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 78/2023/HC-PT NGÀY 22/02/2023 VỀ KHIẾU KIỆN YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH VI HÀNH CHÍNH
Ngày 22 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 668/2022/TLPT-HC ngày 27 tháng 10 năm 2022 về việc“Khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định xử phạt vi phạm hành vi hành chính”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 40/2023/QĐ-PT ngày 12 tháng 01 năm 2023 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Thành A, sinh năm 1993 (có mặt);
Địa chỉ: số 344, tổ 6, ấp B1, xã B1, huyện B, tỉnh An Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Thành A là Luật sư Hồ Hoàng P – Văn phòng Luật sư Hồ Hoàng P thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang (có mặt);
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (vắng mặt);
Địa chỉ: số 82, đường Tôn Đức Thắng, phường B3, thành phố B4, tỉnh An Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang là các ông:
1. Ông Phạm Quốc V, Trưởng phòng Phòng Nội chính – Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (vắng mặt);
2. Ông Võ Thành N, Chuyên viên Phòng Nội chính – Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (có mặt);
3. Ông Nguyễn Văn Đ, Trưởng phòng Phòng Tư pháp huyện B, tỉnh An Giang (có mặt);
- Người kháng cáo: người khởi kiện là ông Nguyễn Thành A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Người khởi kiện ông Nguyễn Thành A trình bày:
Từ ngày 21/11/2021 đến ngày 02/12/2021, ông Nguyễn Thành A có mua 03 máy gặt đập liên hợp, cụ thể:
+ Máy số 01: hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BF03238; số khung:
DC-70HKH501393, có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài;
+ Máy số 02: máy gặt đập liên hợp: hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BGN0922, số khung: DC-70HKH504504, có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài;
+ Máy số 03: hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BFU0112, số khung:
DC-70HKH501795, có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài.
Ông A mua máy cũ của những người trong địa phương về sửa chữa bán lại kiếm lời.
Ngày 16/12/2021, ông A bị Công an huyện B, tỉnh An Giang lập Biên bản vi phạm hành chính. Đến ngày 25/02/2022, ông A nhận được Quyết định số:
28/QĐ-XPHC, ngày 14/02/2022 về việc xử phạt vi phạm hành chính do Chủ tịch Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt UBND) tỉnh An Giang ký, với nội dung: phạt tiền: 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu đồng). Hình thức phạt bổ sung: tịch thu tang vật là 03 máy gặt đập liên hợp nhãn hiệu như đã nêu trên. Theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 15 của Nghị định số 98/2020/NĐ-CP, ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tại Quyết định số: 28/QĐ-XPHC, ngày 14/02/2022 “Về việc xử phạt vi phạm hành chính” do Chủ tịch UBND tỉnh An Giang ký, có nội dung: hình thức xử phạt chính: phạt tiền: 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu đồng); hình thức phạt bổ sung: tịch thu tang vật là 03 máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng (nhãn hiệu đã nêu ở trên).
Ông Nguyễn Thành A không đồng ý với Quyết định số: 28/QĐ-XPHC, ngày 14/02/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh An Giang. Vì, những chiếc máy gặt đập liên hợp mà ông A mua là những máy cũ đã qua sử dụng, khi mua máy thì có giấy tờ mua bán, hợp đồng vận chuyển máy và các giấy tờ khác có liên quan đều có xác nhận của chính quyền địa phương. Hơn nữa, nghề chính của gia đình ông A là thợ sửa chữa máy, vay tiền mua máy cũ về sửa, bán kiếm lời nuôi gia đình. Từ khi bị tịch thu các máy gặt đập liên hợp nêu trên, đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống gia đình ông A.
Do đó, ông Nguyễn Thành A khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang hủy Quyết định số: 28/QĐ-XPHC, ngày 14/02/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Về việc xử phạt vi phạm hành chính.
Người bị kiện: Chủ tịch UBND tỉnh An Giang trình bày tại Công văn số 689/UBND-NC, ngày 24/6/2022:
Ngày 16/12/2021, Tổ công tác liên ngành chống buôn lậu kết hợp Đội Điều tra tổng hợp Công an huyện B và Công an xã B1, huyện B, tỉnh An Giang kiểm tra hộ kinh doanh Tiệm điện Còn, do ông Nguyễn Thành A, sinh năm 1993, làm chủ hộ kinh doanh, địa chỉ kinh doanh tại tổ 7, ấp B1, xã B1, huyện B thì phát hiện 04 (bốn) máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng, có xuất xứ nước ngoài, không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc hàng hóa hợp pháp, nên Tổ công tác lập Biên bản vi phạm hành chính số 0174426/BB-VPHC, ngày 16/12/2021 đối với ông Nguyễn Thành A về hành vi “Kinh doanh hàng hóa nhập lậu, hàng hóa là 04 (bốn) máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng, có xuất xứ nước ngoài, không hóa đơn chứng từ nhập khẩu” theo quy định tại Điều 15 của Nghị định số: 98/2020/NĐ-CP, ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ thể:
1. Máy gặt đập liên hợp KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BF03238, số khung: DC-70HKH501393;
2. Máy gặt đập liên hợp KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BGN0922, số khung: DC-70HKH504504;
3. Máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BFU0112, số khung: DC-70HKH501795;
4. Máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BJC0780, số khung: DC-70HVN507592.
Ngày 16/12/2021, làm việc với Công an huyện B, ông Nguyễn Thành A cho biết: ông mua máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng, không có hóa đơn chứng từ để sửa chữa và bán lại kiếm lời; khi mua chỉ làm hợp đồng mua bán tay, không công chứng.
Ngày 16/12/2021, ông Nguyễn Thành A có Tờ tự khai gửi Công an huyện B, với nội dung: vào khoảng tháng 11-12/2021, ông A có tìm hiểu qua mạng xã hội mua 04 máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng, nhãn hiệu nước ngoài, không hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc nhập khẩu, cụ thể: mua của ông Ma Lăng Đồng 03 máy gặt đập liên hợp (02 máy giá 200.000.000 đồng, 01 máy có giá 255.000.000 đồng) và mua của ông Trịnh Quang Vĩ 01 máy gặt đập liên hợp giá 200.000.000 đồng, khi mua không có hồ sơ, hóa đơn chứng từ, chỉ làm giấy mua bán tay với mục đích sửa chữa rồi bán lại kiếm lời.
Công an huyện B xác minh tình tiết vi phạm của ông Nguyễn Thành A tại Công văn số: 20/CV-HTXM, ngày 20/12/2021, Công văn số: 21/CV-HTXM, ngày 20/12/2021, Công văn số: 28/CV-HTXM, ngày 12/01/2022, Công văn số 45/CV-HTXM, ngày 17/01/2022, với kết quả như sau:
- Đối với máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403- BJC0780, số khung: DC-70HVN507592 được nhập khẩu và phân phối bởi Công ty TNHH Kubota Việt Nam có hồ sơ nhập khẩu hợp pháp, nên UBND tỉnh đã trả lại cho ông Nguyễn Thành A theo quy định.
- Đối với 03 máy máy gặt đập liên hợp còn lại (máy gặt đập liên hợp KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BF03238, số khung: DC-70HKH501393; 01 (một) máy gặt đập liên hợp KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BGN0922, số khung: DC-70HKH504504; 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC- 70, số máy: V2403-BFU0112, số khung: DC-70HKH501795), ông Nguyễn Thành A không cung cấp được hồ sơ, hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc nhập khẩu hợp pháp theo quy tại Điều 15 của Nghị định số: 98/2020/NĐ-CP, ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Sau đây viết tắt Nghị định số: 98/2020/NĐ-CP).
Ngày 10/02/2022, UBND huyện B có Tờ trình số: 12/TTr-UBND đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh ban hành quyết định xử phạt đối với ông Nguyễn Thành A, sinh năm 1993, địa chỉ: ấp B1, xã B1, huyện B về hành vi “kinh doanh hàng hóa nhập lậu” theo quy định tại điểm i, khoản 1 và điểm a, khoản 4, Điều 15 của Nghị định số: 98/2020/NĐ-CP.
Căn cứ hồ sơ vụ việc và quy định của pháp luật đủ cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Ngày 14/02/2022, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 28/QĐ-XPHC có nội dung:
+ Ông Nguyễn Thành A đã thực hiện hành vi “Kinh doanh hàng hóa nhập lậu” có giá trị tang vật vi phạm là 704.000.000 đồng vi phạm quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 15 của Nghị định số: 98/2020/NĐ-CP.
+ Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng: không có + Hình thức xử phạt chính: phạt tiền 45.000.000 đồng.
+ Hình thức xử phạt bổ sung: tịch thu tang vật là 03 máy máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng gồm: 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC- 70, số máy: V2403-BF03238, số khung: DC-70HKH501393 có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài; 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403-BGN0922, số khung: DC-70HKH504504 có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài; 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy: V2403- BFU0112, số khung: DC-70HKH501795 có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 15 của Nghị định số: 98/2020/NĐ-CP.
+ Trả lại 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, model: H- VN, Made in Thailan, số máy: V2403-BJC0780, số khung: DC-70HVN507592 được nhập khẩu và phân phối bởi Công ty TNHH Kubota Việt Nam và 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 52K8008045 do Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện B cấp ngày 02/4/2018 cho chủ sở hữu.
Việc Chủ tịch UBND tỉnh An Giang ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC là đúng quy định pháp luật.
Vì vậy, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thành A.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang quyết định:
Bác toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Thành A khởi kiện đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 28/QĐ-XPHC, ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo về quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/8/2022, người khởi kiện ông Nguyễn Thành A có đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số:
28/QĐ-XPHC, ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người khởi kiện ông Nguyễn Thành A và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện là Luật sư Hồ Hoàng P thống nhất trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông A, tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang; với các lý do: những chiếc máy gặt đập liên hợp mà ông A mua là những máy cũ đã qua sử dụng, khi mua máy có giấy tờ mua bán, hợp đồng vận chuyển máy và các giấy tờ khác có liên quan đều có xác nhận của chính quyền địa phương. Bản thân ông A là thợ sửa chữa máy, vay tiền mua máy cũ về sửa, bán kiếm lời nuôi gia đình. Từ khi bị tịch thu 03 máy gặt đập liên hợp đến nay đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình vì ông A không còn nguồn thu nhập nào khác.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện trình bày:
Ông Nguyễn Thành A có hành vi mua bán máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng, có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài, không có hóa đơn chứng từ hợp pháp là vi phạm điểm c, khoản 2 Điều 1, khoản 6, Điều 3, Điều 15 của Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ. Do đó, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang là đúng qui định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông A, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Về tố tụng, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính về phiên tòa phúc thẩm. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.
Về nội dung, khi hàng hóa xuất xứ từ nước ngoài về Việt Nam phải có hóa đơn chứng từ, nhằm tránh thất thoát thuế. Trường hợp máy gặt đập liên hợp của ông A mua bán không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc hợp pháp là vi phạm. Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thành A về việc hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 28/QĐ-XPHC, ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện không xuất trình được các tài liệu chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông A, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận: Toàn bộ diễn biến vụ án như phần tóm tắt nội dung đã được viện dẫn ở trên, xét kháng cáo của người khởi kiện, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của đương sự, của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là ông Phạm Quốc V, đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng nêu trên.
[1.2] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đối với ông Nguyễn Thành A là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Ngày 04/3/2022, ông Nguyễn Thành A khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022 nêu trên, là còn thời hiệu và thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 32 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[2] Về nội dung: Xét tính hợp pháp của Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022.
[2.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành trên cơ sở Biên bản vi phạm hành chính số 0174426/BB-VPHC ngày 16/12/2021 của Công an huyện B là đúng về thời hạn, thời hiệu, thẩm quyền theo quy định tại đoạn 2 khoản 2, khoản 3 Điều 61; điểm a khoản 1 Điều 6; điểm c khoản 1 Điều 66; khoản 3 Điều 38; Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Đồng thời, ông A cũng không khiếu nại về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên mà chỉ kháng cáo về hành vi vi phạm và hình thức xử phạt bổ sung (tịch thu tang vật).
[2.2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thành A
[2.2.1] Về hành vi vi phạm:
Căn cứ Tờ tự khai ngày 16/12/2021, ông Nguyễn Thành A gửi Công an huyện B (Bút lục số 114) xác định ông A mua 03 máy gặt đập liên hợp cũ bao gồm: 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy V2403- BF03238, số khung DC-70HKH501393 có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài; 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy V2403-BGN0922, số khung DC-70HKH504504 có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài; 01 (một) máy gặt đập liên hợp hiệu KUBOTA DC-70, số máy V2403-BFU0112, số khung DC- 70HKH501795 có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài.
Căn cứ điểm d khoản 6 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP về giải thích từ ngữ “Hàng hoá nhập lậu” gồm: “Hàng hoá nhập khẩu lưu thông trên thị trường không có hoá đơn, chứng từ kèm theo hoặc có hoá đơn chứng từ nhưng hoá đơn chứng từ là không hợp pháp theo quy định của pháp luật về quản lý hoá đơn”.
Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 64/2015/TT-BTC-BCT-BCA-BQP ngày 08/5/2015 của Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá nhập khẩu lưu thông trên thị trường như sau:“Đối với hàng hoá nhập khẩu của cơ sở sản xuất, kinh doanh không trực tiếp nhập khẩu vận chuyển, bày bán hoặc lưu kho phải có hoá đơn, chứng từ của cơ sở bán hàng theo quy định tại Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về hoá đơn bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ”.
Xét tại thời điểm kiểm tra, ông Nguyễn Thành A không cung cấp được hồ sơ, hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc nhập khẩu hợp pháp đối với 03 máy gặt đập liên hợp đã qua sử dụng, có nhãn hiệu, xuất xứ nước ngoài mà chỉ có các giấy mua bán viết tay, có xác nhận của chính quyền địa phương về việc mua bán giữa các chủ sở hữu.
Đối chiếu với các quy định nêu trên, có căn cứ xác định ông A mua 03 máy gặt đập (cũ) có xuất xứ nước ngoài, nhưng không có hóa đơn, chứng từ nhập khẩu hợp pháp. Do đó, ông A bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu, là có cơ sở.
[2.2.2] Về số tiền xử phạt và hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật Theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản Công an huyện B tại Biên bản số 03/BB-ĐGTS ngày 18/12/2021 (Bút lục số 115-116) thì 03 máy gặt đập liên hợp nêu trên có giá trị 704.000.000 đồng.
Tại điểm i khoản 1 Điều 15 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi kinh doanh hàng hoá nhập lậu có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên”. Ngoài ra, hình thức xử phạt, còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm đối với hành vi kinh doanh hàng hoá nhập lậu theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 15 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ.
Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022 đối với ông Nguyễn Thành A về hành vi “Kinh doanh hàng hóa nhập lậu”, với hình thức phạt tiền 45.000.000 đồng và tịch thu 03 máy gặt đập liên hợp không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc nhập khẩu hợp pháp theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 15 và điểm a khoản 4 Điều 15 của Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ, là có cơ sở.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Thành A, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia phiên tòa.
[3] Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện ông Nguyễn Thành A phải chịu do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Thành A, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
1. Tuyên xử: Bác toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Thành A khởi kiện đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPHC ngày 14/02/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Thành A phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hành chính phúc thẩm nhưng được cấn trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0000304 ngày 22/8/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh An Giang.
3. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 78/2023/HC-PT về khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định xử phạt vi phạm hành vi hành chính
Số hiệu: | 78/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 22/02/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về