TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 78/2021/HSST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Lường C; Tên gọi khác: Không;
Sinh ngày: 24/3/1992, tại tỉnh B;
Điạ chỉ: Bản P, phường N, thành phố Đ, tỉnh B Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 3/12; Con ông: Lường D(Đã chết); Con bà: Lường N(Còn sống); Vợ: Lò L; Bị cáo có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 09/01/2021, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lò L; Địa chỉ: Bản P, phường N, thành phố Đ, tỉnh B (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 09/01/2021, tổ công tác công an phường H, thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực thuộc tổ 05, phường H, thành phố Đ, phát hiện bị cáo Lường C điều khiển chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27B2 - 036.85 đi về hướng trung tâm y tế thành phố Đ có biểu hiện phạm tội về ma túy, tổ công tác yêu cầu dừng xe kiểm tra, C liền thả từ trong lòng bàn tay trái xuống mặt đường, cách bánh xe trước của C khoảng 20 cm 01 gói nhỏ, bên trong có 04 viên nén màu hồng, gói bằng gói nilon màu trắng và giấy bạc màu xám, C khai 04 viên nén là hồng phiến, C mua của một người đàn ông không quen biết vào buổi trưa cùng ngày ở đường thuộc bản Xôm, xã T, huyện B, hết 200.000đ, mục đích để sử dụng.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 09/01/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 145/GĐ-PC09 ngày 17/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,38 gam;
Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS-TPĐBP ngày 29/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Lường C về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS xử phạt bị cáo C từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 0,28 gam Methamphetamine, (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh giấy bạc màu xám, 01 mảnh nilon màu trắng. Tịch thu sung ngân sách 1/2 giá trị chiếc xe mô tô BKS 27B2- 036.85, kèm giấy đăng ký xe mang tên Lò L, chìa khóa xe, trả lại cho chị Lương 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B2- 03685. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lò L trình bày: Chiếc xe máy biển kiểm soát 27B2 - 03685, nhãn hiệu HONDA - Wave , đăng ký xe máy mang tên Lò L, là tài sản chung của vợ chồng chị, đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe máy trên cho chị.
Bị cáo không bổ sung thêm lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 09/01/2021, tại khu vực tổ 05, phường H, thành phố Đ, Lường C đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,38 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 45 phút ngày 09/01/2021, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 09/01/2021, kết luận giám định số 145/GĐ-PC09 ngày 17/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.
Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo, với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52/BLHS. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.
[2]. Từ những phân tích trên khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, với khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ là 0,38 gam Methamphetamine, thì mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, thì ngoài hình phạt C bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.....hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông, tại bản Xôm, xã Y, huyện B, nhưng không biết họ, tên, địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 27B2 - 036.85, nhãn hiệu HONDA - Wave , là phương tiện phạm tội cùng đăng ký xe máy mang tên Lò L, kèm chìa khóa xe, trong quá trình giải quyết vụ án, xác định là tài sản chung của bị cáo và vợ là chị Lò L, chị L không biết việc bị cáo dùng chiếc xe máy trên làm phương tiện phạm tội, nên cần tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe máy và trả lại cho chị L 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B2- 036.85.
[6]. Vật chứng: 0,28 gam Methamphetamine (Vật chứng hoàn lại sau giám định), là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 mảnh giấy bạc màu xám, 01 mảnh nilon màu trắng không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Lường C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
- Xử phạt bị cáo Lường C 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (09/01/2021).
2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 /BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,28 gam Methamphetamine, (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh giấy bạc màu xám, 01 mảnh nilon màu trắng, tịch thu sung ngân sách 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B2- 03685, nhãn hiệu HONDA - Wave ...màu sơn xanh đen bạc, số khung RLHJA391XLY045550, Số máy JA39E1381059, 01 đăng ký xe máy mang tên Lò L và 01 chìa khóa xe, trả lại cho chị L 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 27B2- 03685.(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B)
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 78/2021/HSST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 78/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về