TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 02/2021/HSST NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 93/2020/HSST ngày 11 tháng 12 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021 đối với:
* Bị cáo Vũ Tiến L, sinh năm 1985; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Tổ dân phố Nguyễn Đ, phường Tiên N, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân H, sinh năm 1950 và bà Lê Thị M, sinh năm 1951; Vợ: Nguyễn Thị H; bị cáo có 02 con: Lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 04/9/2020, đến ngày 10/9/2020 chuyển tạm giam; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.
*Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Bạch Ngọc T, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố Đồng V, phường Đồng V, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Bà Bùi Thị H, sinh năm 1961; địa chỉ: Tổ dân phố Ninh L, phường Duy M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
*Ngƣời làm chứng:
- Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1966; chị Lê Thị Hồng Nh, sinh năm 1983( đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 30 phút ngày 04/9/2020, tại khu vực nghĩa trang thuộc tổ dân phố Ngọc Đ, phường Hoàng Đ, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, Tổ công tác Công an thị xã Duy Tiên phối hợp với Công an phường Hoàng Đ phát hiện, bắt quả tang Vũ Tiến L, SN 1985, nơi cư trú: Tổ dân phố Nguyễn Đ, phường Tiên N, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam đang tàng trữ trái phép 01 gói giấy nhỏ, loại giấy có dòng kẻ, bên trong có chứa chất màu trắng, dạng cục, bột. Vũ Tiến L khai là ma túy - Heroine, để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong vật chứng có liên quan và đưa đối tượng cùng tang vật về trụ sở Công an phường Hoàng Đông để làm việc.
Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm: Thu tại vị trí chân đối tượng Vũ Tiến L: 01 gói nhỏ, kích thước khoảng (2x1) cm, bên ngoài được bọc bằng giấy, loại giấy có dòng kẻ, bên trong có chứa chất màu trắng dạng cục, bột, được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01; Số tiền 190.000 đồng, được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT02; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long đã sử dụng hết, kiểm tra bên trong phần giấy bạc đã bị xé một nửa; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc chưa qua sử dụng; 01 mảnh giấy bạc đã bị cháy xém không rõ hình, được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT03. Thu trong túi quần bên trái Vũ Tiến L đang mặc 01 điện thoại di động màu đỏ - đen, nhãn hiệu Mobell, bên trong lắp 02 sim điện thoại mạng Viettel, được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT04.Thu tại vị trí nhà tiếp linh, cách nơi bắt giữ đối tượng Vũ Tiến L khoảng 10 m là 01 xe mô tô, kiểu xe Wave màu đỏ, BKS: 90K1 – 1145, số máy 095761, số khung 000761.
Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Tiến L tại tổ dân phố Nguyễn Đ, phường Tiên N, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, lực lượng Công an không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì.
Tại bản kết luận giám định số 174/PC09 - MT ngày 08/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định có khối lượng 0,136g, là ma túy, loại Heroine Tại Cơ quan điều tra, Vũ Tiến L khai nhận: Khoảng 09 giờ 30 phút sáng ngày 04/9/2020 tại khu vực dốc An Nhân thuộc phường Hoàng Đ, thị xã Duy T, Vũ Tiến L gặp một người nam giới tên là T ở tổ dân phố Đồng V, thị xã Duy T. Tại đây, L đưa cho T số tiền 400.000 đồng nhờ T đi mua Methedol (loại thuốc hỗ trợ cai nghiện) về để uống. T cầm tiền L đưa rồi hỏi L “Tý nữa có chơi một tý không”. L hiểu ý T hỏi như thế là có sử dụng ma túy Heroine không nên nói “Có”. Sau đó, T và L hẹn gặp nhau tại nghĩa trang thuộc tổ dân phố Ngọc Đ, phường Hoàng Đ, thị xã Duy T. Lúc này L một mình điều khiển xe mô tô, BKS: 90K1 – 1145 đi trước còn T cầm số tiền 400.000 đồng của L đưa rồi đi đâu thì L không biết. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi L đang ở nghĩa trang thuộc tổ dân phố Ngọc Đ, phường Hoàng Đ thì T một mình đi đến rồi lấy ra một gói ma túy loại Heroine. L hỏi T “Quả này lấy bao nhiêu”, ý L hỏi T mua gói ma túy với giá bao nhiêu tiền, T trả lời “Quả này hai trăm”, hiểu ý của T nói gói ma túy đó được mua với giá hai trăm nghìn đồng nên L không nói gì. Sau đó L và T lấy một phần ma túy trong gói ma túy đó ra để sử dụng. Số ma túy còn lại được T gói lại và để tại vị trí L ngồi. Khi L vừa sử dụng xong một phần ma túy vừa lấy trong gói ma túy đó ra thì thấy lực lượng công an đi đến. Do hoảng sợ, L định bỏ chạy nhưng bị lực lượng công an phát hiện, bắt người, thu giữ toàn bộ tang vật có liên quan còn T khi đó do đứng cách xa nên bỏ chạy thoát. Cơ quan CSĐT Công an thị xã Duy Tiên đã phối hợp với Công an phường Đồng Văn, thị xã Duy Tiên xác minh, xác định tại tổ dân phố Đồng V, phường Đồng V, thị xã Duy Tiên có người nam giới tên là Bạch Ngọc T, SN 1985 là đối tượng nghiện ma túy. Qúa trình làm việc, T khai nhận: Bản thân trước đây nghiện ma túy nên có quen biết Vũ Tiến L. Khoảng 08 giờ sáng ngày 04/9/2020 T có điện thoại cho Vũ Tiến L rủ L đi uống nước nhưng do L bận nên T và L không gặp nhau nên không có việc T nhận số tiền 400.000 đồng từ L, không đi mua ma túy và sử dụng cùng L. Ngoài lời khai của Vũ Tiến L ra thì không còn tài liệu nào khác chứng minh nội dung khai báo của L về T. Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an thị xã Duy Tiên không đủ căn cứ để xử lý đối với Bạch Ngọc T.
Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 10/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Vũ Tiến L từ 15( Mười lăm) tháng đến 18( Mười tám) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đưa ra quan điểm về xử lý vật chứng và tuyên án phí đối với bị cáo.
Trong phần tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt và không tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử( HĐXX) nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, của Điều tra viên và Kiểm sát viên thấy rằng: Việc xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh tội phạm, ban hành các văn bản tố tụng đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng; biên bản bắt giữ người phạm quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử, đủ cơ sở kết luận:
Do bản thân nghiện ma túy nên hồi 10 giờ 30 phút, ngày 04/9/2020 tại khu vực nghĩa trang thuộc tổ dân phố Ngọc Đ, phường Hoàng Đ, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, Vũ Tiến L đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy có tổng khối lượng 0,136 gam, loại Heroine, để sử dụng thì bị lực lượng Công an thị xã Duy Tiên phối hợp cùng Công an phường Hoàng Đông, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ các vật chứng liên quan.
Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu trật tự trị an tại địa phương, hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn (có xác nhận của chính quyền địa phương) nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ nhận định trên, HĐXX nhận thấy bị cáo là một người nghiện ma túy nên cần phải ấn định mức hình phạt nghiêm khắc cách ly khỏi xã hội đủ để bị cáo có thời gian cai nghiện, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4]Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5]Về nguồn gốc ma túy: Đối với người nam giới tên Bạch Ngọc T, L khai đã nhận của L 400.000đ để T mua hộ thuốc cai nghiên Methedol nhưng lại mua ma túy và sử dụng cùng L. Do T không thừa nhận và ngoài lời khai của bị cáo, thì không có tài liệu nào khác chứng minh hành vi nêu trên của T nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý đối với người này.
[6] Về vật chứng vụ án:
Đối với 02 chiếc phong bì niêm phong số 171/PC09-MT có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam; xác định đây là vật chứng cấm lưu hành liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử cần tịch thu cho tiêu hủy.
Đối với 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 bật lửa ga đã cũ màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc KT 11,5 x 5cm đều là những vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell đã cũ, bên trong lắp 02 sim Viettel và số tiền 190.000 đồng, qua đấu tranh xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo nên trả lại cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với 01 xe mô tô đã cũ kiểu xe Wave màu đỏ, gắn BKS: 90K1-1145. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên được đăng ký lần đầu ngày 14/12/2010, mang tên chủ xe là bà Bùi Thị H, sinh năm 1961; nơi cư trú: Tổ dân phố Ninh L, phường Duy M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam. Quá trình sử dụng bà H đã bán lại chiếc xe trên có người khác (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ). Bản thân bị cáo L khai nhận mua chiếc xe mô tô trên của một người không biết tên, tuổi, địa chỉ, khi mua không có giấy tờ gì. Tài liệu trong hồ sơ cũng thế hiện chiếc xe Wave màu đỏ, đeo BKS:
90K1-1145 không thuộc tang vật của vụ án nào. Vì vậy xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Từ nhận định trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố: Bị cáo Vũ Tiến L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt: Vũ Tiến L 15( Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2020.
2. Vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 02 chiếc phong bì niêm phong số 171/PC09-MT có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 bật lửa ga đã cũ màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc KT 11,5 x 5cm.
Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell đã cũ, bên trong lắp 02 sim Viettel; số tiền 190.000 đồng và 01 xe mô tô đã cũ kiểu xe Wave màu đỏ, gắn BKS: 90K1-1145.
(Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận giữa Công an thị xã Duy Tiên và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duy Tiên ngày 15/01/2021).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo Vũ Tiến L phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 02/2021/HSST ngày 18/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 02/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về