Bản án 78/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂKLĂK

BẢN ÁN 78/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12/11/2020 tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh ĐăkLăk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 74/2020/HSST ngày 08 tháng 10 năm 2020. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên số 08/2020/HSST - QĐ ngày 04/11/2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Y H; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 15/5/2002 tại tỉnh Đăk Lăk;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: buôn S H, xã C S, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Ê đê; Tôn giáo: Không; con ông: Y W, sinh năm 1979; con bà: Hồ Thị Tuyết N (không rõ năm sinh, nghề nghiệp, chỗ ở); Họ tên mẹ nuôi: H D, sinh năm 1985. Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bị cáo Y H bị Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 24/2019/HSST ngày 23/8/2019. Đến ngày 18/10/2019 chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/6/2020, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đăk Lăk, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Y H là bà Hoàng Thị Thủy - Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đăk Lăk (Có mặt)

- Người bị hại: Anh Y Đ; Sinh năm: 1991 (vắng mặt) Nơi cư trú: buôn S H, xã C S, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk

- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Y W; Sinh năm: 1979 (Có mặt) Nơi cư trú: buôn S H, xã C S, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và các diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 21/3/2020, Y H sau khi nhậu ở nhà bà H Chữ xong, Y H và Y G cùng về nhà Y H để nhậu tiếp. Lúc này, tại nhà Y H thì ông Y W cũng đang ngồi nhậu cùng Y Wy nên Y H và Y G vào ngồi nhậu cùng. Một lúc sau thì Y Đ đến và ngồi nhậu cùng. Trong lúc ngồi nhậu, Y H và Y Đ có xảy ra mâu thuẫn, nên Y Đ đứng dậy đi đến chỗ Y H ngồi, đồng thời kéo Y H lại và đè vào gáy Y H xuống nền nhà 03 lần. Lúc này Y H vùng người đứng dậy, chạy đến đống củi cà phê trước sân nhà nhặt một khúc cây cà phê (dài khoảng 60cm, đường kính khoảng 03cm), khi Y Đ vừa chạy đến cách Y H khoảng 1m thì bị Y H cầm khúc cây cà phê vừa nhặt được bằng tay phải đập một cái theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng vào vùng dưới bả vai trái của Y Đ nhưng không để lại thương tích. Sau đó Y H bỏ chạy được khoảng 4 đến 5m thì Y Đ đuổi theo cách Y H khoảng 1m thì Y H tiếp tục đánh khúc cây theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải trúng vào bắp tay phải của Y Đ nhưng không để lại thương tích. Khi Y Đ quay người bỏ chạy thì bị Y H ném khúc cây về hướng Y Đ nhưng không trúng. Y Đ đi đến đứng trước cửa chính nhà chửi Y H nên Y H nhặt một khúc cây khác (có đường kính 03cm, dài 62cm, một đầu to có đường kính 10cm) cầm tay phải vào đầu nhỏ của khúc cây, đi về hướng Y Đ đang đứng, khi cách Y Đ khoảng 6m thì Y H giơ tay phải lên ném khúc cây về hướng Y Đ, trúng vào vùng trán – thái dương trái của Y Đ gây ra thương tích nên được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên.

Ngày 24/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Čư M’gar ra Quyết định số 73/QĐ trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể của Y Đ là bao nhiêu phần trăm, vật tác động gây nên vết thương, cơ chế hình thành vết thương.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số 356/PY – TgT ngày 25/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 38%. Vật tác động: Vật tày cứng. Cơ chế hình thành vết thương tích: Vết thương vùng trán – thái dương trái, vỡ lún sọ trán trái, dập não xuất huyết trán trái do vật tày cứng tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải.

Ngày 05/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Čư M’gar ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 152/QĐ trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể của Y Đ là bao nhiêu phần trăm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 828/PY – TgT ngày 08/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 38%.

Cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 06/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar đã truy tố bị cáo Y H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Y H đã khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Y H như nội dung cáo trạng và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Y H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 90, các khoản 1, 2, 3, 6 Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.

Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Y H từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01/6/2020 Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo Y H đã cùng gia đình đến thăm hỏi, xin lỗi và bồi thường cho anh Y Đ, số tiền 4.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Về phía anh Y Đ đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu bồi thường dân sự về sau.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX tịch thu, tiêu hủy 01 (một) khúc cây cà phê có chiều dài 62 cm, đường kính 03 cm, có một đầu to đường kính 10 cm Người bào chữa cho bị cáo Y H tranh luận:

Nhất trí về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo Y H, tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo xuất phát từ hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra.

Về tình tiết giảm nhẹ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ: Từ khi phạm tội và tại phiên tòa hôm nay bị cáo luôn thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; bị cáo cùng gia đình khắc phục toàn bộ hậu quả gây ra; bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo; bị cáo là dân tộc tiểu số; bị cáo không có tiền án; người bị hại có một phần lỗi; khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 nên nhận thức về pháp luật có phần hạn chế; bị cáo có hoàn cảnh đáng thương không biết mẹ từ nhỏ. Từ những tình tiết giảm nhẹ trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 90, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Y H mức hình phạt thấp nhất.

Bị cáo không bổ sung gì Viện kiểm sát đối đáp: Xét thấy người bào chữa cho bị cáo không có gì mới nên không đối đáp gì.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình sự để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an Huyện Cư Mgar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Mgar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Y H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Mgar đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, người bị hại, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 21 giờ ngày 21/3/2020, tại buôn Sút Hluốt, xã Cư Suê, huyện Čư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Y H đã dùng một khúc cây cà phê ném vào vùng trán – thái dương trái của Y Đ gây thương tích 38%, thì bị phát hiện xử lý.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1, điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại điểm a khoản 1, điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:

"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm;

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

…..

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này".

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Y H phạm tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1, điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự như cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 06/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk truy tố bị cáo Y H là đúng người, đúng tội.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù là có phần nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo thấp hơn hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

Người bào chữa cho bị cáo Y H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Y H thuộc diện hộ nghèo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Y H là phù hợp nên cần được xem xét.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Y H đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người bị hại, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi gây tổn hại đến sức khỏe của người khác đều bị xử lý. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác. Trong lúc ngồi nhậu chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà các không làm chủ được hành vi dẫn đến việc bị cáo đã dùng một khúc cây cà phê ném vào vùng trán – thái dương trái của Y Đ gây thương tích 38%. Hành vi của bị cáo không chỉ gây tổn hại đến sức khỏe của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Về nhân thân: Ngày 23/8/2019 bị cáo Y H bị Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại bản án số 24/2019/HSST, đến ngày 18/10/2019 bị cáo Y H chấp hành xong bản án, tuy nhiên căn cứ vào điểm b, khoản 1, Điều 107 Bộ luật hình sự thì Y H được coi là không có án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà bị cáo lại tiếp tục phạm tội, vào ngày 21/3/2020 bị cáo đã dùng một khúc cây cà phê ném vào vùng trán – thái dương trái của Y Đ gây thương tích 38% nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm a khoản 1, điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo cùng gia đình đã bồi thường cho bị hại; bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; bị cáo là dân tộc tiểu số, bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo, khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi (17 tuổi, 10 tháng 24 ngày). Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, e, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 90, khoản 1 Điều 101 và áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt là phù hợp.

Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo mình thành công dân sống tôn trọng pháp luật, ngoài ra còn mục đích răn đe phòng ngừa chung về tội phạm.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận việc bị cáo Y H đã cùng gia đình bồi thường cho người bị hại anh Y Đ, số tiền 4.000.000 và anh Y Đ đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu bồi thường dân sự về sau nên không đặt ra để giải quyết.

[6] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) khúc cây cà phê (dài 62 cm, đường kính 03 cm, có một đầu to đường kính 10 cm) [7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Y H thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Y H phạm tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 90, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Y H 03 (ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt bắt tạm giam, ngày 01/6/2020 2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật dân sự Ghi nhận việc bị cáo Y H đã cùng gia đình bồi thường cho người bị hại anh Y Đ, số tiền 4.000.000 và anh Y Đ đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu bồi thường dân sự về sau nên không đặt ra để giải quyết.

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) khúc cây cà phê (dài 62 cm, đường kính 03 cm, có một đầu to đường kính 10 cm) (Hiện vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Mgar theo biên bản giao nhận ngày 08/10/2020)

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Y H thuộc diện hộ nghèo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật .

Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 78/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:78/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;