Bản án 74/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 74/2018/HS-ST NGÀY 20/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2018/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Thanh T, sinh năm: 1978; Tại Long An; Nơi đăng ký HKTT: ấp Đ, xã ĐL, huyện Đ, tỉnh Long An; Chỗ ở hiện nay: ấp Đ, xã ĐL, huyện Đ, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: làm ruộng; Họ và tên cha: Phan Văn Mang, sinh năm: 1958 (sống); Họ và tên mẹ: Hồ Thị Buôn, sinh năm: 1958 (sống); Em ruột: có 01 người, sinh năm 1989; Họ và tên vợ: Lại Thị Tôn Nữ Trà M, sinh năm: 1980; Con: có 02 người, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2003;Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 12/9/2012, Phan Thanh T bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự phúc thẩm số 188/2012/HSPT. Phan Thanh T chấp hành xong hình phạt 01 năm 06 tháng tù vào ngày 24/4/2013. Phan Thanh T đã thi hành xong án phí và tiền thu lợi bất chính vào ngày 11/12/2012 và 15/11/2012; Bị cáo Phan Thanh T bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/4/2018 đến nay (có mặt tại phiên Tòa). 

- Bị hại: Anh Nguyễn Pha L, sinh năm 1980. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Đ xã ĐH, huyện ĐH, tỉnh Long An.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Hoàng V, ông Lê Bảo T(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 27/4/2018, Phan Thanh T (1978) ngụ ấp Đ, xã ĐL, huyện Đ, tỉnh Long An trên đường đi uống cà phê về nhà T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền trả nợ. Khi đi ngang qua nhà ông Nguyễn Pha Lê (1980) ngụ Đức Ngãi 2, xã Đức Lập Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, T nhìn thấy phía sau nhà ông Lê có chuồng bò bên trong cột 04 con bò. Lúc này, T đi vào chuồng bò tháo dây 01 con bò giống đực lông màu vàng – đen, cao 1,4 mét, T dắt con bò đi theo hướng kênh Thầy Cai, đoạn kênh 12, 13 thuộc ấp Đ, xã ĐL, huyện Đ, tỉnh Long An. Tại đây, T cột con bò vào một cây tràm cách lề đường khoảng 08 mét rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày, T mượn xe môtô (không rõ biển số) đến địa điểm cột con bò trộm được thì thấy bò vẫn còn. T điều khiển xe môtô về nhà rồi đón xe buýt đến bến xe Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh để tìm người bán bò. Tại đây, T gặp người mua bò tên Nguyễn Văn Chiều và T thương lượng giá bán bò là 18.000.000 đồng. Ông Chiều dùng xe môtô chở T đến địa điểm cột bò để xem bò, khi đến nơi ông Chiều thấy 01 con bò lớn cột tại bụi tràm và kêu bán giá rẻ nên ông Chiều nghi ngờ không phải bò của T nên không mua. Ông Chiều chở T đến cầu Thầy Cai và điện thoại cho ông Nguyễn Hoàng Vũ đến mua. Khoảng 10 phút sau, ông Vũ đến gặp Chiều và T, ông Vũ biết T không có nuôi bò nên nghi ngờ bò do T trộm của người khác. Vũ chở T đến chổ cột bò, lúc này có ông Lê Bảo Thân (trưởng ấp Bàu Công) nói cho Vũ biết con bò T kêu bán là bò T dắt trộm của ông Nguyễn Pha Lê đã trình báo với cơ quan công an. Ông Thân trình báo với công an mời Phan Thanh T làm việc và T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận về định giá tài sản số 22/KL.ĐGTS ngày 02/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Hòa kết luận: 01 con bò giống đực, lông vàng – đen, cao 1,4 mét, trị giá: 25.060.000 đồng. Bút lục số: 79.

Trong quá trình điều tra, truy tố bị can Phan Thanh T thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Xử lý vật chứng vụ án: 01 con bò giống đực, lông vàng, cao 1,4mét, nặng khoảng 230kg, 02 sừng thẳng, mỗi sừng dài khoảng 15 cm, bò cột dây xỏ xuyên mũi. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Đức Hòa đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Pha Lê tại biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 03/5/2018. Bút lục số: 80.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 76/CT-VKSĐH ngày 22 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Phan Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Phan Thanh T gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Phan Thanh T mức hình phạt từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Pha Lê đã nhận lại tài sản bị mất trộm xong và không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Thanh T hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại anh Nguyễn Pha Lê trình bày tại Cơ quan điều tra: Khoảng 1h30 ngày 27/4/2018 anh bị mất 1 con bò đực trị giá 25.060.000đ. Nay anh đã nhận lại tài sản bị mất trộm xong nên không có yêu cầu gì khác trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại và người làm chứng nhưng những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

 [2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thanh T trước Tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường vào lúc 12 giờ 00 phút ngày 27 tháng 4 năm 2018, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng với bản kết luận về định giá tài sản số 22/KL.ĐGTS ngày 02/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của huyện Đức Hòa và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Thấy rằng, bị cáo Phan Thanh T do lười lao động, muốn kiếm tiền tiêu xài cá nhân mà không phải bỏ công sức lao động nên vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 27/4/2018, Phan Thanh T vào chuồng bò của anh Nguyễn Pha Lê bắt trộm 1 con bò. Tại bản kết luận về định giá tài sản số 22/KL.ĐGTS ngày 02/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Hòa kết luận: 01 con bò giống đực, lông vàng – đen, cao 1,4 mét, trị giá: 25.060.000 đồng.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phan Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Phan Thanh T với tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3]. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản mà bị cáo T gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, quyền này được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm hại trực tiếp đến tài sản đang thuộc sở hữu của anh Nguyễn Pha Lê, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của bị cáo gây ra là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi trái pháp luật của bị cáo cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

 [4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Về nhân thân, bị cáo đã từng bị kết án về tội Trộm cắp tài sản, sau khi chấp hành xong hình phạt không chịu tu dưỡng bản thân hòa nhập cộng đồng thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục phạm tôi nên cần phải xử lý thật nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã trả lại cho người bị hại, người bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên khi áp dụng hình phạt cho bị cáo có xem xét giảm nhẹ một phần.

Từ phân tích [3] và [4], xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt đối với bị cáo Phan Thanh T là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

 [5]. Về tang vật chứng:

- 01 con bò giống đực, lông vàng, cao 1,4 mét, nặng khoảng 230kg, 02 sừng thẳng, mỗi sừng dài khoảng 15 cm, bò cột dây xỏ xuyên mũi. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Đức Hòa đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Pha Lê tại biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 03/5/2018.

 [6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Pha Lê đã nhận lại tài sản bị trộm và không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên không đề cập xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); 

Tuyên bố bị cáo Phan Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thanh T 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Phan Thanh T 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/7/2018) để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo Phan Thanh T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án này là sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;