Bản án 73/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội hủy hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 73/2019/HS-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2019/HSST, ngày 31 tháng 10 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2019/QĐXXST-HS ngày 31/10/2019 đối với bị cáo:

Triệu Văn T, sinh năm 1974. Tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Triệu Văn H (đã chết) và con bà Triệu Thị V (đã chết); vợ: Hoàng Thị H, sinh năm 1980 (đã ly hôn); con: có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Tốt; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04/10/2019 đến nay. Có mặt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Triệu Văn T: Ông Bế Quang Hưng - Luật sư thuộc văn phòng luật sư Hưng Vương - Đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn. Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa và có bản luận cứ bào chữa cho bị cáo.

- Bị hại:

Anh Triệu Văn H, sinh năm 1981. Có mặt;

Chị Vi Thị L, sinh năm 1982. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

- Người làm chứng:

1. Ông Hứa Thành L, sinh năm 1974. Có mặt.

2. Ông Lương Văn H, sinh năm 1974. Có mặt.

3. Anh Triệu Văn B, sinh năm 1983. Có mặt.

4. Ông Triệu Văn E, sinh năm 1961. Vắng mặt.

5. Bà Hà Thị H, sinh năm 1972. Có mặt.

6. Ông Triệu Văn V, sinh năm 1962. Vắng mặt.

7. Anh Triệu Quốc H, sinh năm 1984. Vắng mặt.

8. Ông Ngô Minh H, sinh năm 1978. Có mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

9. Anh Triệu Văn T, sinh năm 1997. Có mặt.

10. Bà Bùi Thị H, sinh năm 1958. Có mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Triệu Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do mâu thuẫn với ông Triệu Văn E là anh trai ruột của Triệu Văn T và là bố đẻ của anh Triệu Văn H trong việc xây mộ cho bố mẹ vào cuối tháng 01/2019 âm lịch. Khoảng 06 giờ 00 ngày 22/4/2019, Triệu Văn T cầm theo 01 dao bài dài 35cm, đi bộ từ nhà ở Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn theo bờ mương lên đường liên xã. Sau đo tiếp tục đi bộ theo đường mòn khoảng 200m vào khu L, thuộc thôn T, xã V thì đến bãi na của gia đình anh H là cháu ruột T. T quan sát thấy không có người qua lại nên cầm dao bằng tay trái và chặt na theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải vào các gốc na của gia đình anh H. Thân chặt những cây ở gần bên phải đường trước, đến cuối bãi thì chặt ngược trở lại. T chặt khoảng 01 giờ thì chặt hết số na trong bãi, tổng cộng là 115 cây, trong đó 93 cây có đường kính gốc dưới 02cm, 22 cây có đường kính gốc từ 02cm đến 05cm. Sau đó, T cầm dao đi theo đường cũ về nhà.

Ngày 06/6/2019, Triệu Văn T giao nộp: 01 con dao bằng kim loại có kích thước 35,5cm; phần dao dài 25cm, chỗ rộng của phần dao có kích thước 07cm; phần chuôi dao dài 10,5cm, đường kính chuôi dao là 2,2cm; lưỡi dao có vết mẻ khuyết kích thước 1,5cm x 0,2cm. Dao đã cũ, lưỡi dao bị sứt mẻ nhiều chỗ.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 13/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hữu Lũng kết luận tại thời điểm ngày 22/4/2019: 93 cây na có đường kính gốc dưới 02cm có giá: 4.743.000đ; 22 cây na có đường kính gốc từ 02cm đến 05cm có giá: 3.124.000đ. Tổng cộng 115 cây na bị chặt có giá trị là 7.867.000đ.

Quá trình điều tra phát hiện Triệu Văn T có bệnh án nội khoa ngày 13/02/2019 tại Trung tâm y tế huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, chẩn đoán lúc ra viện là suy nhược cơ thể, loạn thần. Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với Triệu Văn T.

Tại kết luận giám định pháp y tâm thần số: 347/KLGĐ ngày 02/10/2019 của Viện pháp y tâm thần trung ương kết luận: Tại thời điểm gây án và thời điểm giám định, Triệu Văn T bị bệnh rối loạn lo âu thực tổn. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992, bệnh có mã số F06.4. Tại các thời điểm trên, Triệu Văn T đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Về vật chứng vụ án: Quá trình khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra đã thu giữ 03 đoạn thân cây na, trong tổng 115 cây bị chặt phá, trong đó: 01 đoạn có đường kính một đầu lớn nhất 01 cm, đầu nhỏ 0,8cm, dài 31 cm; 01 đoạn có đường kính một đầu lớn nhất 02cm, đầu nhỏ 1,8cm, dài 32cm; 01 đoạn có đường kính một đầu lớn nhất 05cm, đầu nhỏ 4,9cm, dài 16cm; 01 con dao bằng kim loại do Triệu Văn T giao nộp là T sử dụng để chặt phá cây na của gia đình anh Triệu Văn H.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa làm rõ, số na bị chặt phá thuộc sở hữu của gia đình anh Triệu Văn H và chị Vi Thị L. Tại phiên tòa bị hại anh Triệu Văn H không yêu cầu bị cáo Triệu Văn T bồi thường thiệt hại giá trị 115 cây na là 7.867.000đ.

Tại bản cáo trạng số: 76/CT-VKSHL-HS ngày 30/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng để xét xử bị cáo Triệu Văn T về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 điều 178 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng giữ nguyên quyết định truy tố, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án và đề nghị:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm i, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và các Điều 38, 50, 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn T từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng, thời gian chấp hành tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện H và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng gồm: 01 con dao bằng kim loại có kích thước 35,5cm; 01 thân cây na dài 31 cm; 01 thân cây na dài 32cm; 01 thân cây na dài 16cm.

Về bồi thường dân sự: Do bị hại không yêu cầu, nên không đề nghị xem xét giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định để sung ngân sách Nhà nước.

Phần tranh luận:

Tại bản luận cứ bào chữa của Luật sư Bế Quang Hưng bào chữa cho bị cáo Triệu Văn T là: Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng truy tố đối với bị cáo Triệu Văn T về tội Hủy hoại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ, không truy tố oan bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng có khung hình phạt là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 03 năm.

Đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có bệnh đang phải điều trị, ảnh hưởng tới nhận thức hành vi; khai báo thành khẩn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; là người lao động, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; là hộ sống độc thân do đã ly hôn vợ, gia đình thuộc diện hộ nghèo, đời sống khó khăn. Chưa bồi thường thiệt hại được là do khó khăn về kinh tế. Đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trên, xử phạt bị cáo Triệu Văn T mức án từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo.

Bị cáo Triệu Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đã gây ra và đồng ý với bản luận cứ bào chữa của luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo không có ý kiến tranh luận bổ sung gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bị hại anh Triệu Văn H không có ý kiến tranh luận gì. Anh Triệu Văn H xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra. Lời khai của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, về thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, diễn biến sự việc. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Triệu Văn T phạm tội "Hủy hoại tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự với hành vi sau:

[2] Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 22 tháng 4 năm 2019, Triệu Văn T cầm dao đi bộ từ nhà đến khu Lân Đạn thuộc Thôn T, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn chặt phá 115 cây na của gia đình anh Triệu Văn H và chị Vi Thị L có tổng giá trị là 7.867.000đ.

[3] Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Triệu Văn T về tội "Hủy hoại tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi hủy hoại tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do vậy, cần áp dụng một mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Như vậy bị cáo có nhân thân tốt.

[6] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo còn là hộ sống độc thân do đã ly hôn vợ, gia đình thuộc diện hộ nghèo. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[8] Từ những phân tích trên khi lượng hình cần áp dụng một mức hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Nhưng cũng cần xem xét đến nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ phần nào về hình phạt đối với bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với những người biết ăn năn hối cải để sửa chữa sai lầm.

[9] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và đề nghị về tội danh và áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[10] Bị cáo Triệu Văn T không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, đồng thời bị cáo phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy, nếu cho bị cáo hưởng án treo và giao bị cáo chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng không gây nguy hại cho xã hội, vẫn đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời thể hiện được sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với những người biết ăn năn hối cải. Do vậy không cần thiết bắt bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[11] Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh và làm rõ tại phiên tòa bị cáo sống độc thân, gia đình thuộc diện hộ nghèo, không có tài sản riêng gì có giá trị. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[12] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy đồ vật không còn giá trị sử dụng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo gồm: 01 con dao bằng kim loại có kích thước 35,5cm, phần dao dài 25cm, chỗ rộng của phần dao có kích thước 07cm, phần chuôi dao dài 10,5cm, đường kính chuôi dao là 2,2cm, lưỡi dao có vết mẻ khuyết kích thước 1,5cm x 0,2cm; 01 đoạn thân cây na có đường kính một đầu lớn nhất 01 cm, đầu nhỏ 0,8cm, dài 31 cm; 01 đoạn thân cây na có đường kính một đầu lớn nhất 02cm, đầu nhỏ 1,8cm, dài 32cm; 01 đoạn thân cây na có đường kính một đầu lớn nhất 05cm, đầu nhỏ 4,9cm, dài 16cm.

[13] Về trách nhiệm bồi thường dân sư: Tại phiên tòa, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại 115 cây na bị chặt phá với số tiền là 7.867.000đ. Do bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[14] Về án phí: Bị cáo Triệu Văn T bị kết án phạm tội “Hủy hoại tài sản” nên phải chịu án phí hình sụ sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước theo quy định.

[15] Quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm i, q, s khoản 1, 2 Điều 51; các Điều 38, 50 và 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn T 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm, thời hạn chấp hành tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện H và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy đồ vật không còn giá trị sử dụng gồm: 01 con dao bằng kim loại có kích thước 35,5cm, phần dao dài 25cm, chỗ rộng của phần dao có kích thước 07cm, phần chuôi dao dài 10,5cm, đường kính chuôi dao là 2,2cm, lưỡi dao có vết mẻ khuyết kích thước 1,5cm x 0,2cm; 01 đoạn thân cây na có đường kính một đầu lớn nhất 01 cm, đầu nhỏ 0,8cm, dài 31 cm; 01 đoạn thân cây na có đường kính một đầu lớn nhất 02cm, đầu nhỏ 1,8cm, dài 32cm; 01 đoạn thân cây na có đường kính một đầu lớn nhất 05cm, đầu nhỏ 4,9cm, dài 16cm.

(Vật chứng trên hiện được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019).

4. Về bồi thường dân sự: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Triệu Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

6. Quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hai có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại chị Vi Thị L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội hủy hoại tài sản

Số hiệu:73/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;