Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 16/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ P

BẢN ÁN 71/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 123/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Mạc Thị Hải Y, sinh năm 1995; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã H, huyện N, thành phố P; chỗ ở hiện nay: Thôn 12, xã H, huyện N, thành phố P; có mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn 5, xã H, huyện N, thành phố P; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 20 tháng 02 năm 2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Mạc Thị Hải Y trình bày:

Chị kết hôn với anh Bùi Văn H vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện N, thành phố P ngày 17 tháng 01 năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh Bùi Văn H ở thôn 5, xã H, huyện N, thành phố P. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tính vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống; mặt khác anh Bùi Văn H thường xuyên chơi cờ bạc, không có trách nhiệm với gia đình và vợ con. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Bùi Văn H đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Chị đã bỏ về nhà bố đẻ ở thôn 12, xã H, huyện N, thành phố P sống từ tháng 02 năm 2019 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Mạc Thị Hải Y khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Bùi Văn H không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn H.

Về con chung: Chị và anh Bùi Văn H có 01 con chung tên Bùi T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2014. Hiện nay chị đang trực tiếp nuôi con chung và từ khi vợ chồng sống ly thân nhau đến nay chị vẫn là người trực tiếp nuôi con chung. Khi ly hôn chị yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên Bùi T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2014 cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Mạc Thị Hải Y không yêu cầu anh Bùi Văn H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị và anh Bùi Văn H không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Bùi Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng anh Bùi Văn H vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Bùi Văn H có mặt tại phiên tòa nhưng anh Bùi Văn H vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Mạc Thị Hải Y.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, thành phố P phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là chị Mạc Thị Hải Y trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Bùi Văn H không tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Mạc Thị Hải Y. Về hôn nhân: Cho chị Mạc Thị Hải Y được ly hôn anh Bùi Văn H. Về con chung: Giao con chung tên Bùi T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2014 cho chị Mạc Thị Hải Y trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Mạc Thị Hải Y không yêu cầu anh Bùi Văn H cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung, vay nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Mạc Thị Hải Y phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Bùi Văn H có nơi cư trú tại thôn 5, xã H, huyện N, thành phố P, Toà án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để anh Bùi Văn H có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Mạc Thị Hải Y nhưng anh Bùi Văn H vắng mặt không có lý do. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện anh Bùi Văn H có đăng ký hộ khẩu thường trú và vẫn đang thường xuyên sinh sống tại thôn 5, xã H, huyện N, thành phố P. Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Bùi Văn H có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Mạc Thị Hải Y nhưng anh Bùi Văn H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Bùi Văn H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Mạc Thị Hải Y và anh Bùi Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện N, thành phố P vào ngày 17 tháng 01 năm 2014 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị Mạc Thị Hải Y và anh Bùi Văn H chung sống hoà thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị Mạc Thị Hải Y trình bày do tính tính vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Bùi Văn H thường xuyên chơi cờ bạc và không có trách nhiệm với gia đình và vợ con. Nay chị Mạc Thị Hải Y khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Bùi Văn H không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn H. Bị đơn là anh Bùi Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai nhưng anh Bùi Văn H vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Bùi Văn H có mặt tại phiên toà trình bày ý kiến đối với yêu xin ly hôn của chị Mạc Thị Hải Y nhưng anh Bùi Văn H vắng mặt không có lý do và không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Mạc Thị Hải Y. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Mạc Thị Hải Y và anh Bùi Văn H do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, mặt khác anh Bùi Văn H thường xuyên chơi cờ bạc dẫn đến vay nợ nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Chị Mạc Thị Hải Y và anh Bùi Văn H đã sống ly thân nhau từ tháng 02 năm 2019 đến nay. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị Mạc Thị Hải Y và anh Bùi Văn H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác anh Bùi Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh Bùi Văn H vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Mạc Thị Hải Y. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Mạc Thị Hải Y về việc xin ly hôn anh Bùi Văn H, cho chị Mạc Thị Hải Y được ly hôn anh Bùi Văn H.

[3] Về con chung: Chị Mạc Thị Hải Y và anh Bùi Văn H có 01 con chung tên Bùi T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2014. Hiện nay chị Mạc Thị Hải Y đang trực tiếp nuôi con chung. Khi ly hôn chị Mạc Thị Hải Y yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên Bùi T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2014 cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Bùi Văn H không đến Tòa án trình bày ý kiến về con chung. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng thì cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện từ khi vợ chồng chị Mạc Thị Hải Y và anh Bùi Văn H sống ly thân nhau đến nay thì chị Mạc Thị Hải Y vẫn trực tiếp nuôi con chung, việc nuôi con chung của chị Mạc Thị Hải Y đã ổn định. Vì vậy căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Mạc Thị Hải Y, giao con chung tên Bùi T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2014 cho chị Mạc Thị Hải Y trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Mạc Thị Hải Y không yêu cầu anh Bùi Văn H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Mạc Thị Hải Y trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Bùi Văn H chưa có ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Mạc Thị Hải Y phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Cho chị Mạc Thị Hải Y được ly hôn anh Bùi Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung tên Bùi T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2014 cho chị Mạc Thị Hải Y trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Mạc Thị Hải Y không yêu cầu anh Bùi Văn H cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết 3. Về án phí: Chị Mạc Thị Hải Y phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000369 ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, thành phố P. Chị Mạc Thị Hải Y đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 16/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:71/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;