Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 71/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 07 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2019/TLST- HNGĐ ngày 02/7/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2019/QĐXX- ST ngày 27/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 60/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị T, sinh năm 1993.

Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Vũ Văn V, sinh năm 1991.

Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã P, huyện H, Thái Bình.

( Chị T vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt; anh V vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là chị Đỗ Thị T trình bày: Chị và anh Vũ Văn V kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 16/01/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 08 tháng thì mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh V đi làm xa nhà không quan tâm tới vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Từ cuối năm 2017 cho đến nay chị và anh V sống ly thân. Khi nộp đơn ly hôn, chị đã điện thoại nói chuyện với anh V về Tòa án để giải quyết nhưng anh V nói với chị là anh V đi làm ở xa không về Tòa án để giải quyết được. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị T đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn V.

Về con chung: Chị và anh V có hai con chung là Vũ Thị Khánh A, sinh ngày 04/3/2015 và Vũ Gia H, sinh ngày 03/8/2017. Từ khi vợ chồng sống ly thân, con chung Vũ Thị Khánh A sống cùng mẹ đẻ anh V tại xã Nam Phú, còn con Vũ Gia H sống cùng chị. Sau khi ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, công nợ: Chị T không đề nghị Tòa án giải quyết. Bị đơn anh Vũ Văn V vắng mặt tại phiên tòa và không có lời khai.

Tại biên bản làm việc ngày 20/9/2019, bà Phan Thị V là mẹ đẻ anh Vũ Văn V trình bày: Anh V và chị T tự nguyện tìm hiểu, kết hôn ngày 16/01/2014 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam P, huyện H, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn hai vợ chồng về sinh sống tại gia đình bà, đến cuối năm 2017 do mâu thuẫn vợ chồng nên chị T đã về nhà bố mẹ đẻ chị T sinh sống từ đó cho đến nay. Gia đình bà có nhận được thông báo của Tòa án về việc chị T xin ly hôn anh V và đã thông báo cho anh V biết nhưng do công việc nên anh V không về Tòa án làm việc được, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật; Về con chung: Anh V và chị T có hai con chung là Vũ Thị Khánh A và Vũ Gia H. Chị T có nguyện vọng xin nuôi cả hai con thì gia đình bà cũng đồng ý để chị T nuôi hai con chung. Về tài sản chung, công nợ: Anh V và chị T không có tài sản chung, nợ chung liên quan đến gia đình bà.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, các văn bản tố tụng được tống đạt đầy đủ, đúng thời hạn cho các đương sự. Đối với nguyên đơn đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, bị đơn không đến Tòa án làm việc, chưa chấp hành các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và đã từ bỏ việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Đỗ Thị T được ly hôn anh Vũ Văn V; về con chung: Giao hai con chung Vũ Thị Khánh A, sinh ngày 04/3/2015 và Vũ Gia H, sinh ngày 03/8/2017 cho chị Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết; về tài sản chung: Không giải quyết; về án phí: Chị Đỗ Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa cũng như phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Vũ Văn V có hộ khẩu thường trú tại Thôn T, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” giữa chị Đỗ Thị T và anh Vũ Văn V thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. Chị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ vào điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị T và anh Vũ Văn V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm kết hôn, chị T và anh V đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị T và anh V chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, từ cuối năm 2017 cho đến nay chị T và anh V không chung sống cùng nhau, quan hệ vợ chồng không còn tồn tại trên thực tế. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T vẫn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V, bị đơn anh V đã được Tòa án giao Thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật nhưng anh V không đến Tòa án làm việc và cũng không có ý kiến về việc chị T xin ly hôn anh.

Điều đó chứng tỏ hôn nhân của chị T và anh V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giải quyết cho chị T được ly hôn với anh V là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh V có hai con chung là Vũ Thị Khánh A, sinh ngày 04/3/2015 và Vũ Gia H, sinh ngày 03/8/2017. Chị T có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Xét thấy, trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, anh V không lên Tòa án làm việc để thể hiện quan điểm của mình về việc nuôi dưỡng con chung, hơn nữa cả hai con chung của chị T và anh V còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ hơn. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giao hai con chung Vũ Thị Khánh A và Vũ Gia H cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định tại điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

[2.4]. Về án phí: Chị Đỗ Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị T được ly hôn với anh Vũ Văn V.

2/ Về con chung: Giao hai con chung Vũ Thị Khánh A, sinh ngày 04/3/2015 và Vũ Gia H, sinh ngày 03/8/2017 cho chị Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

Anh Vũ Văn V có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung và có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

3/ Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Đỗ Thị T phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên lai thu số 0009130 ngày 02/7/2019.

5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:71/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;