TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 70/2021/DS-PT NGÀY 08/03/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT; YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 08 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 567/2020/TLPT-DS ngày 19 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2020/DS-ST ngày 14/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4107/2021/QĐ- PT ngày 06 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2021/QĐ- PT ngày 25 tháng 01 năm 2021 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 117/2021/QĐ- PT ngày 17 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1958.
Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An,
Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1968 (theo Văn bản ủy quyền ngày 11/9/2018) (có mặt).
Địa chỉ: số 166, ấp 5, xã T2, huyện M, tỉnh Long An
2. Bị đơn: Ông Chu Quốc T3, sinh năm 1960 (có mặt).
Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ủy ban nhân dân huyện V (xin vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố M1, thị trấn V, huyện V, tỉnh Long An, vắng mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện V: Ông Bùi Văn T4- Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện V (xin vắng mặt).
3.2. Bà Nguyễn Ngọc H1, sinh năm 1971.
Địa chỉ: Khu phố B1, thị trấn V, huyện V, tỉnh Long An (vợ của ông T3)
Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Chu Quốc T3, sinh năm 1960 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 27/12/2018) (có mặt).
Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An.
3.3. Bà Nguyễn Thị E, sinh năm 1960.
Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An (vợ của ông H).
Người đại diện theo ủy quyền của bà E: Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1968.(theo văn bản ủy quyền ngày 12/5/2020) (có mặt).
Địa chỉ: số 166, ấp 5, xã T2, huyện M, tỉnh Long An
3.4. Ông Trần Văn B2, sinh năm 1953.
Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Chu Quốc T3 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Huỳnh Văn H trình bày:
Ông Huỳnh Văn H là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất số 34, diện tích đo đạc thực tế là 7793,4 m2 (diện tích trên giấy tờ pháp lý là 7.805m2) và thửa đất số 41, diện tích đo đạc thực tế là 4470 m2 (diện tích trên giấy tờ pháp lý là 4.644m2) các thửa đất này cùng tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An được UBND huyện V, tỉnh Long An cấp ngày 09/12/1996. Nguồn gốc đất là do tập đoàn cấp cho ông H vào năm 1985. Giáp ranh với các thửa 34 và thửa 41 của ông H là các số thửa 30, tờ bản đồ số 1, diện tích đo đạc thực tế là 1423 m2 (diện tích trên giấy tờ pháp lý là 1522 m2); thửa số 8 có diện tích đo đạc thực tế và trên giấy tờ pháp lý là 6792 m2 và thửa số 10 có diện tích đo đạc thực tế và trên giấy tờ pháp lý là 3708 m2, cùng tờ bản đồ số 11 được Ủy ban nhân dân huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Chu Quốc T3 vào ngày 25/5/2000. Trong quá trình sử dụng giữa ông H và ông B2 có tiến hành xác định rõ ranh giới đất có lập biên bản ngày 24/6/1996. Ngoài ra tại biên bản hòa giải tại xã T ngày 08/7/1996 giữa ông H và ông T3 cũng đã thỏa thuận về việc xác định ranh giới đất và cắm mốc theo ranh giới đất mà các bên đã chỉ, khi xác định rõ ranh giới đất ông H có xây dựng hàng rào cách ranh đất 0,2m đối với phần đất giáp đường Gò Bà Sáu và thửa 30 do ông T3 đứng tên ông H có đổ đất tôn thêm để nuôi cá và sử dụng ổn định từ năm 1996 cho đến nay. Trong thời gian gần đây ông T3 đào mương giáp ranh, phá bỏ cột mốc đã cắm lấn sang hàng rào làm ngã đỗ. Ông H khởi kiện:
- Yêu cầu ông Chu Quốc T3 khôi phục lại bờ ranh, bồi đắp vào phần đất bị sạt lỡ khi ông T3 múc đất làm đường nước.
- Yêu cầu Tòa án hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông T3 đứng tên được Ủy ban nhân dân huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/5/2000 tại thửa 30 tờ bản đồ số 1 đất tọa lạc tại ấp B, xã T tổng diện tích 99m2 cụ thể tại các vị trí A diện tích 6,4m2; Vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2; Vị trí A4 diện tích 45m2 theo mảnh trích đo địa chính số 39-2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện V ngày 12/11/2018.
Đối với phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng tại vị trí B diện tích 21m2, vị trí B1 diện tích 192m2 ông H yêu cầu được sử dụng, đối với phần đất tại vị trí B2 diện tích 373m2 giao cho ông T3 sử dụng.
Ông Chu Quốc T3 là bị đơn đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Ngọc H1 trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 30 tờ bản đồ số 1, thửa số 8 và thửa số 10 cùng tờ bản đồ số 11 do ông T3 nhận chuyển nhượng từ ông Trần Văn B2 (đã chết) vào năm 1996, khi nhận chuyển nhượng hai bên chỉ viết giấy tay chứ không có đo đạc cắm mốc giới, khi nhận chuyển nhượng ông B2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ủy ban nhân dân huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T3 vào ngày 25/5/2000. Ông T3 sử dụng phần đất từ đó cho đến nay, tiếp giáp với các thửa đất của ông T3 là thửa đất số 34 và 41 của ông Huỳnh Văn H đúng như ông H trình bày. Trong quá trình sử dụng đất, khoảng năm 2000 khi ông T3 không có mặt ở địa phương thì ông H tự ý cắm cọc và xây dựng hàng rào lấn sang phần đất của ông. Cho đến năm 2005 ông T3 mới biết ông H sử dụng lấn qua phần đất thổ cư mặt tiền khoảng từ 3m đến 4m.
Đối với yêu cầu của ông H đòi khôi phục lại bờ ranh ban đầu và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T3, ông T3 không đồng ý.
Ông T3 yêu cầu ông H trả lại cho ông T3 phần đất thổ cư có tổng diện tích 99m2 thuộc một phần thửa đất số 30 ông T3 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể tại các vị trí A diện tích 6,4m2; Vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2; Vị trí A4 diện tích 45m2 theo mảnh trích đo địa chính số 39-2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện V ngày 12/11/2018.
Trường hợp Tòa án xác định phần đất trên là của ông H thì ông T3 đồng ý múc đất đắp lại phần bờ ranh, hàng rào và cọc đã bị đỗ ngã cho ông H, ngược lại xác định đất là của ông T3 thì yêu cầu ông H di dời hàng rào trả lại phần đất đã lấn chiếm cho ông T3.
Đối với diện tích đất tại vị trí A5 ông T3 xác định là đất của ông H, ông T3 không tranh chấp. Đối với diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại vị trí B diện tích 21m2, vị trí B1 diện tích 192m2 và vị trí B2 diện tích 373m2 ông T3 yêu cầu chia đôi mỗi bên sử dụng ½ diện tích.
Đối với phần đất tranh chấp tại vị trí C, C1, do trước đây do ông H đã xây dựng hàng rào, ông T3 đắp bờ để đi. Nay nếu ông H dỡ hàng rào dời ra, ông T3 đồng ý trả lại cho ông H nếu ông H có yêu cầu.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/5/2019, ông Trần Văn B2 trình bày: Nguồn gốc các thửa đất số 30, 8 và 10 là do ông nhận chuyển nhượng từ ông Đinh Văn V1 (đã chết). Các thửa đất này giáp ranh với đất của ông có bờ ranh là 20cm, ông B2 sử dụng đến ngày 09/31996 thì chuyển nhượng đất lại cho ông T3 (vào thời điểm chuyển nhượng đất cho ông T3 đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; khi chuyển nhượng không có đo đạc, cắm mốc). Quá trình sử dụng đất giữa ông H và ông T3 phát sinh tranh chấp. Sau đó các bên xác định ranh và cắm cọc xác định ranh theo biên bản ngày 24/6/1996.
Tại các Công văn số 40/CV-TNMT ngày 04/3/2019 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện V và Công văn số 219/UBND-VP ngày 21/3/2019 của Ủy ban nhân dân huyện V xác định khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất 34, 41 cho ông H và 20, 8, 10 ông T3, Ủy ban nhân dân huyện căn cứ trên cơ sở kê khai đăng ký xét cấp giấy chứng nhận theo hồ sơ địa chính được thiết lập trước đây và Hội đồng đăng ký đất đai xã T xét duyệt; không có tiến hành đo đạc thực tế, xác định ranh giới.
Đối với yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện cấp cho ông Chu Quốc T3, Ủy ban huyện V đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2020/DSST ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H đã rút về việc yêu cầu ông Chu Quốc T3 khôi phục lại hàng rào, yêu cầu ông T3 trả lại phần đất tại vị trí B và vị trí C theo mảnh trích đo địa chính số 39-2018.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Chu Quốc T3.
3. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích đo đạc thực tế là 92,6m2 (tại vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2) thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V do Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho ông Chu Quốc T3 ngày 25/5/2000.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Chu Quốc T3 yêu cầu ông Huỳnh Văn H phải trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 92,6m2 tại vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2 thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V.
5. Ông Huỳnh Văn H được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 92,6m2 tại vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2; Vị trí A4 diện tích 45m2 thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V.
6. Ông Chu Quốc T3 được tiếp tục sử dụng phần đất tại vị trí A diện tích 6,4m2 thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V.
7. Phần đất tại vị trí A diện tích 6,4m2; A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2 được thể hiện Mảnh trích đo địa chính số 39-2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện V ngày 12/11/2018, mảnh trích đo được kèm theo bản án này.
8. Ông Huỳnh Văn H, ông Chu Quốc T3 có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản án này theo quy định tại khoản 3 Điều 100 luật đất đai năm 2013.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ, trách nhiệm thi hành án, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 24/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Long An nhận đơn của ông Chu Quốc T3 là bị đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng:
- Bác toàn bộ yêu cầu của ông H, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng do ông Chu Quốc T3 đứng tên, được Ủy ban nhân dân huyện V cấp ngày 25/5/2000, tại thửa 30, tờ bản đồ số 1, đất tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An. Tổng diện tích 99 m2, cụ thể tại các vị trí: A diện tích 6,4 m2, vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2 theo mảnh trích đo địa chính số 39 năm 2018 của chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện V ngày 12/11/2018.
- Chấp nhận cho ông Chu Quốc T3 được sử dụng diện tích đất, cụ thể:
Tại thửa 30, tờ bản đồ số 1, đất tọa lạc tại ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Long An. Tổng diện tích 99 m2, cụ thể tại các vị trí: A diện tích 6,4 m2, vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2 theo mảnh trích đo địa chính số 39 năm 2018 của chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện V ngày 12/11/2018.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Chu Quốc T3 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã chấp nhận và không chấp nhận một số yêu cầu của nguyên đơn. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông T3 kháng cáo. Đơn kháng cáo của ông T3 nộp đúng quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Sau khi đánh giá về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực tế sử dụng diện tích đất tranh chấp thì Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật. Kháng cáo của ông T3 không có cơ sở, không có gì mới. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T3, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của ông Chu Quốc T3 nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về nguồn gốc đất: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: Nguồn gốc các thửa đất số 31 và 41 hiện nay ông Huỳnh Văn H đứng tên trước đây là đất của tập đoàn cấp cho ông H; Nguồn gốc của các thửa đất số 30, 8 và 10 do ông Chu Quốc T3 đứng tên là do ông T3 nhận chuyển nhượng từ ông Trần Văn B2 vào năm 1996.
[2.2] Về quá trình sử dụng đất: Ông H đã sử dụng các thửa đất 34, 41 từ năm 1985 đến nay. Quá trình sử dụng đất giữa ông H và ông B2 đã tiến hành xác định ranh giới rõ ràng, có lập biên bản ngày 24/6/1996. Sau khi ông B2 chuyển nhượng đất cho ông T3 thì ngày 08/7/1996 giữa ông H và ông Thảo (cha của ông T3) cũng đã thỏa thuận về việc xác định ranh đất và cắm mốc. Sau khi xác định ranh đất ông H có đổ cọc bê tông xây hàng rào bằng lưới kẽm gai, đổ đất san lắp thêm và sử dụng đất ổn định theo ranh hàng rào từ năm 1996 đến nay.
[2.3] Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Căn cứ công văn số 219/UBND-VP ngày 21/3/2019 của Ủy ban nhân dân huyện V xác định: Việc UBND huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh Văn H thửa 34, 41 và Chu Quốc T3 thửa 30, 08, 10 trên cơ sở kê khai đăng ký xét cấp giấy chứng nhận theo hồ sơ địa chính được thiết lập trước đây và được Hội đồng đăng ký đất đai xã T xét duyệt; không có đo đạc thực tế, xác định ranh giới. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H và ông T3 không đúng với thực tế sử dụng đất đã được các bên thỏa thuận cắm mốc phân ranh từ năm 1996 theo biên bản xác định ranh ngày 24/6/1996 và ngày 08/7/1996 nên không thể căn cứ vào ranh bản đồ địa chính theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm căn cứ giải quyết vụ án mà căn cứ vào ranh đất do các bên thỏa thuận năm 1996 để làm căn cứ giải quyết vụ án là có cơ sở. Phần đất từ hàng rào trở qua thửa 34, 41 là của ông H, phần đất từ hàng rào trở qua thửa 30, 08, 10 là của ông T3. Các bên đã sử dụng ổn định không có tranh chấp. Đến năm 2017 ông T3 đào mương giáp ranh hàng rào làm ngã hàng rào của ông H nên phát sinh tranh chấp.
[2.4] Căn cứ vào Mảnh trích đo địa chính số 39-2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện V ngày 12/11/2018 thì phần đất tranh chấp có diện tích 99m2 (tại Vị trí A diện tích 6,4m2; Vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2; Vị trí A4 diện tích 45m2) thuộc thửa 30 do ông T3 đứng tên quyền sử dụng đất, nhưng thực tế ông H đã sử dụng phần đất 92,6m2 tại vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2; Vị trí A4 diện tích 45m2 ổn định từ năm 1996 đến nay, phần đất tại vị trí A diện tích 6,4m2 do ông T3 sử dụng. Ngày 25/5/2000 ông T3 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 30 trong đó có phần diện tích đất 92,6m2 tại vị trí A2, A3, A4 ông H đang sử dụng là không đứng đối tượng.
[2.5] Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông H hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T3 và không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông T3 buộc ông H phải trả lại 92,6m2 đất tại các vị trí nêu trên là có căn cứ.
[2.6] Các nội dung khác của án sơ thẩm giữ nguyên.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật. Ông T3 kháng cáo nhưng không đưa ra tình tiết làm thay đổi nội dung vụ án do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T3, giữ nguyên án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông T3 là người cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các điều 26, 34, 39, 147, 227, 228, 157, 165, 244, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Căn cứ khoản 1 Điều 31; khoản 4 Điều 32 của Luật tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Điều 2 Luật đất đai năm 1993, Điều 100 Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Chu Quốc T3; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2020/DS-ST ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An cụ thể như sau:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H đã rút về việc yêu cầu ông Chu Quốc T3 khôi phục lại hàng rào, yêu cầu ông T3 trả lại phần đất tại vị trí B và vị trí C theo mảnh trích đo địa chính số 39-2018.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Chu Quốc T3.
3. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích đo đạc thực tế là 92,6m2 (tại vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2) thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V do Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho ông Chu Quốc T3 ngày 25/5/2000.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Chu Quốc T3 yêu cầu ông Huỳnh Văn H phải trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 92,6m2 tại vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2 thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V.
5. Ông Huỳnh Văn H được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 92,6m2 tại vị trí A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2; Vị trí A4 diện tích 45m2 thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V.
6. Ông Chu Quốc T3 được tiếp tục sử dụng phần đất tại vị trí A diện tích 6,4m2 thuộc một phần thửa 30, tờ bản đồ số 1, tại xã T, huyện V.
7. Phần đất tại vị trí A diện tích 6,4m2; A2 diện tích 43,6m2; A3 diện tích 4m2 và A4 diện tích 45m2 được thể hiện Mảnh trích đo địa chính số 39-2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện V ngày 12/11/2018, mảnh trích đo được kèm theo bản án này.
8. Ông Huỳnh Văn H, ông Chu Quốc T3 có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản án này theo quy định tại khoản 3 Điều 100 luật đất đai năm 2013.
9. Về chi phí đo đạc định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: 12.500.000 đồng, Ông Chu Quốc T3 phải chịu 11.000.000 đồng. Ông Huỳnh Văn H phải chịu 1.500.000 đồng. Ông Huỳnh Văn H đã nộp tạm ứng 12.500.000 đồng và chi xong, nên buộc ông Chu Quốc T3 phải hoàn trả cho ông H 11.000.000 đồng.
10. Về án phí dân sự sơ thẩm:
10.1. Ông Chu Quốc T3 được miễn án phí. Hoàn trả cho ông T3 495.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0004278 ngày 24/12/2018 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện V.
10.2. Hoàn trả cho ông Huỳnh Văn H 375.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004942 ngày 13/9/2018 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện V.
11. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Chu Quốc T3 được miễn án phí.
12. Về thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án 70/2021/DS-PT ngày 08/03/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 70/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về