Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 70/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 26 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 266/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 60/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1979; thường trú: Tổ HB, phường X H, quận Th Kh, thành phố Đà Nẵng; tạm trú: Tổ 71B, khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Đức Ch, sinh năm 1976; thường trú: Tổ HB, phường X H, quận Th Kh, thành phố Đà Nẵng; tạm trú: Tổ 71B, khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Bà Trương Thị T, sinh năm 1979; địa chỉ: Tổ C, khu phố Ch L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/3/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Đỗ Đức Ch có thời gian tìm hiểu khoản 04 năm thì tiến hành tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường X H, quận Th Kh, Thành phố Đà Nẵng, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển số 01 cấp ngày 21/5/2005. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị T sinh sống tại Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 2007 chuyển về sinh sống tại địa chỉ tổ 71B, khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu chị T và anh Ch sống rất hạnh phúc. Đến năm 2015, hai bên bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng thường xuyên cãi vả nhau, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh Ch ngoại tình với người phụ nữ khác. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu ly hôn với anh Đỗ Đức Ch.

Về con chung: Quá trình chung sống chị T và anh Ch có 03 con chung tên Đỗ Đức Huy M, sinh ngày 03/10/2010; Đỗ Ngọc Khánh A, sinh ngày 02/5/2012 và Đỗ Đức Huy Kh, sinh ngày 02/5/2012. Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị Hồng T là người trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung và yêu cầu anh Đỗ Đức Ch thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 01 con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng, tổng cộng 3.000.000 đồng/tháng/3 con chung cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Đỗ Đức Ch đã được Tòa án tống đạt hợp lệ bằng hình thức niêm yết thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập bị đơn anh Đỗ Đức Ch yêu cầu cung cấp bản tự khai trình bày ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vào ngày 06/5/2019 nhưng anh Ch vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì. Tòa án triệu tập anh Ch tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 24/5/2019 nhưng anh Ch vắng mặt không lý do và nguyên đơn có đơn xin không tiến hành hòa giải. Vì vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được. Vào các ngày 08/7/2019 và ngày 26/7/2019, Tòa án triệu tập anh Ch tham gia phiên tòa nhưng anh Ch vắng mặt không lý do.

- Người làm chứng chị Trương Thị T trình bày: Chị T là bạn làm chung Công ty với chị T, chị T biết được nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng chị T, anh Ch là do anh Ch có quan hệ với người phụ nữ khác, hai vợ chồng thường xuyên cãi vả nhau.

- Biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An ngày 19/4/2019 tại UBND phường T Đ H, thị xã D A thể hiện: Hội Liên hiệp phụ nữ phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương không tiếp nhận thông tin từ cơ sở phản ánh về mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Đỗ Đức Ch, đồng thời không tiếp nhận đơn yêu cầu hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Ch.

- Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn được triệu tập 02 lần tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Đỗ Đức Ch tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung tên Đức Huy M, sinh ngày 03/10/2010; Đỗ Ngọc Khánh A, sinh ngày 02/5/2012 và Đỗ Đức Huy Kh, sinh ngày 02/5/2012, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị T và anh Ch đã kéo dài, không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ nên yêu cầu ly hôn của chị T là có cơ sở. Và để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung cần giao các con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn và anh Đỗ Đức Ch có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 01 con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng, tổng cộng 3.000.000 đồng/tháng/3 con chung cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn anh Đỗ Đức Ch được triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ 02 lần vào các ngày 08/7/2019 và ngày 26/7/2019 nhưng đều vắng mặt không lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Đỗ Đức Ch là vợ chồng, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân phường X H, quận Th Kh, Thành phố Đà Nẵng, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển số 01 cấp ngày 21/5/2005 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị T xác định trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vả nhau, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh Ch ngoại tình với người phụ nữ khác nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Ch. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Ch đến làm việc nhưng đều vắng mặt không rõ lý do, anh Ch không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, anh Ch cũng không có văn bản thể hiện thiện chí đưa ra phương án hàn gắn mối quan hệ giữa anh với chị T vì vậy có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của chị T và anh Ch đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị Nguyễn Thị Hồng T yêu cầu được ly hôn với anh Đỗ Đức Ch là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Đỗ Đức Ch có 03 con chung tên Đỗ Đức Huy M, sinh ngày 03/10/2010; Đỗ Ngọc Khánh A, sinh ngày 02/5/2012 và Đỗ Đức Huy Kh, sinh ngày 02/5/2012. Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, chị Tiên yêu cầu là người trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung. Cả chị T và anh Ch đều là người có công việc ổn định nên điều kiện chăm sóc các con là như nhau. Tuy nhiên, hiện nay cháu M, A và Khang còn nhỏ, chị T đang trực tiếp chăm sóc, đưa đón các con đi học hằng ngày đồng thời các cháu M, A và Kh mong muốn sinh sống với mẹ. Do đó, để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của các con chung và quyền lợi của người phụ nữ sau khi ly hôn cần giao các cháu Đỗ Đức Huy M, sinh ngày 03/10/2010; Đỗ Ngọc Khánh A, sinh ngày 02/5/2012 và Đỗ Đức Huy Kh, sinh ngày 02/5/2012 cho chị Nguyễn Thị Hồng T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

[2.3] Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T yêu cầu ông Đỗ Đức Ch phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 01 con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng, tổng cộng 3.000.000 đồng/tháng/3 con chung cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi, xét thấy hiện nay anh Ch có việc làm ổn định, các cháu Đỗ Ngọc Khánh A và Đỗ Đức Huy Kh còn nhỏ đang độ tuổi đi học, không có tài sản để tự nuôi mình. Vì vậy, chị Nguyễn Thị Hồng T yêu cầu anh Đỗ Đức Ch có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 01 con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng, tổng cộng 3.000.000 đồng/tháng/3 con chung là chính đáng phù hợp với quy định tại các Điều 110 và 116 Luật Hôn nhân và gia đình, nên có căn cứ chấp nhận.

[2.4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về án phí ly hôn và cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Hồng T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thương vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Anh Đỗ Đức Ch phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung điểm a theo khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thương vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, 82, 83; 84, 107, 110, 117 và Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng T đối với anh Đỗ Đức Ch.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng T được ly hôn với anh Đỗ Đức Ch (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển số 01 do dân Ủy ban nhân phường Hà Xuân, quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng cấp ngày 21/02/2005).

Về con chung: Anh Đỗ Đức Ch giao 03 con chung tên Đỗ Đức Huy M, sinh ngày 03/10/2010; Đỗ Ngọc Khánh A, sinh ngày 02/5/2012 và Đỗ Đức Huy Kh, sinh ngày 02/5/201 cho chị Nguyễn Thị Hồng T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Đỗ Đức Ch có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 01 con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng, tổng cộng 3.000.000 đồng/tháng/3 con chung cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con kể từ khi Bản án có hiệu lực cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành khoản tiền cấp dưỡng nêu trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Sau ly hôn, anh Đỗ Đức Ch có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, chị Nguyễn Thị Hồng T không có quyền cản trở anh Ch thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị Hồng T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí ly hôn và cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Hồng T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0028300 ngày 02/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Anh Đỗ Đức Chí phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:70/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;