TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 69/2017/HSST NGÀY 05/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHÁT MA TÚY
Ngày 05 tháng 12 năm 2017, tại Hội trường trụ sở Ủy ban nhân dân xã Thành Long, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2017/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2017/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
Ng T T, sinh năm 1967 tại tỉnh BT; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: ấp BC, xã BG, huyện CT, tỉnh TN; nơi cư trú hiện nay: ấp TT, xã TL, huyện CT, tỉnhTN; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ng V L(chết) và bà Ng T B (chết); có chồng: Huỳnh V Tvà 03 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ: Ngày 08/8/2017; chuyển tạm giam từ ngày 11/8/2017 đến nay. “có mặt”.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh V T- sinh năm 1960; Trú quán: ấp BC, xã BG, huyện CT, tỉnh TN (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 15 giờ 00 phút ngày 07/8/2017, tại quán nước của Ng T T thuộc ấp Thành Tân, xã Thành Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Ng T T đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy bán cho Lê M T- sinh năm 1987 và Lê Lê T T- sinh năm 1986 cùng ngụ ấp NBS, xã TL, huyện CT, tỉnh TN, thu giữ: Thu trên người Thanh 01 đoạn ống hút được hàn kín 02 đầu, bên trong chứa tinh thể màu trắng, thu giữ trên người của Tới 01 túi rút màu đỏ, bên trong có 02 bịch nylon màu trắng chứa tinh thể rắn màu trắng được hàn kín, tiền Việt Nam 6.155.000đ.
Khám tại quán nước của Tới thu giữ 03 đoạn ống hút được hàn kín 02 đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng, 01 bịch nylon màu trắng bên ngoài quấn keo màu đen chứa tinh thể rắn màu trắng, 01 vỏ bọc bánh hiệu OiShi chứa 03 bịch nylon màu đen và 03 gói quấn keo nhựa màu đen, 04 điện thoại di động các loại, thu giữ thêm 60.000.000 đồng và cùng nhiều vật chứng, tài sản khác có liên quan.
Qua điều tra xác định khoảng 15 giờ ngày 07/8/2017, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê M T và Lê Lê T T đến quán nước của T để mua ma túy đá sử dụng. Khi đến quán, Thanh gặp T hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 300.000đ, còn Tho đợi ngoài xe, sau khi nhận tiền, T đi vào phía trong quán lấy 01 bịch ma túy được đựng trong ống hút nhựa hàn kín 02 đầu đưa cho Thanh, sau đó T đưa cho Thanh 01 đoạn ống thủy tinh do Thanh hỏi mượn trước đó để làm dụng cụ sử dụng ma túy thì bị phát hiện bắt giữ.
Ngoài lần bị bắt quả tang, còn chứng minh được quán nước của T còn trực tiếp bán ma túy (loại ma túy đá) nhiều lần khác nhau, cụ thể:
- Bán cho Lê M T 03 lần, mỗi lần 01 bịch ma túy giá 300.000đ vào ngày 19/7/2017 và lần 2 ngày 29/7/2017, 02 lần này Thanh đi một mình, lần 3 ngày 04.8.2017 Thanh đi cùng với Tho.
- Bán cho Yên T V- sinh năm 1988 ngụ ấp TT04 lần, lần 1 cách đây khoảng 01 tháng, Văn đi cùng Trần T H- sinh năm 1984 ngụ ấp BBS mua 01 bịch giá 300.000đ, lần 2 cuối tháng 7/2017 Văn đi cùng Ng V T- sinh năm 1997 ngụ ấp TT mua 01 bịch giá 200.000đ lần 3 cùng ngày với lần 2 Văn đi cùng Lê C L- sinh năm 1994 mua 01 bịch giá 300.000đ, lần 4 Văn đi cùng Lương Văn Được - sinh năm 1995 ngụ ấp Hòa Bình, xã Hòa Hội mua 01 bịch giá 300.000đ.
- Bán cho Lê M T và Yên T V01 lần 01 bịch giá 300.000đ vào ngày 15/7/2017, cả hai sử dụng tại quán.
Ngoài ra T còn khai nhận bán cho nhiều người khác không biết họ tên địa chỉ của họ. T khai nhận bắt đầu thực hiện việc mua bán ma túy trái phép chất ma túy được khoảng nửa tháng, nguồn gốc ma túy đá do T mua lại của người tên Vy (Nù) và Duy (không rõ nhân thân) tại khu vực huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, sau đó mang về quán nước chia nhỏ ra bán lại để kiếm lời. Đến khi bị bắt T đã mua 04 lần của Vy để bán lại cho người khác, trong đó lần 1 mua 5.000.000đ bán lại được 6.000.000đ, lần 2 mua 9.000.000đ, bán lại được 12.000.000đ, lần 3 mua 12.000.000đ, bán lại được 16.000.000đ, lần 4 mua 18.000.000đ, bán lại được 300.000đ, số ma túy còn lại chưa bán được thì bị phát hiện bắt quả tang, số tiền T thu lợi từ việc bán ma túy là 8.300.000đ.
Tại bản Kết luận giám định số 159/MT- 2017 ngày 10/8/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 đoạn ống hút được hàn kín hai đầu (ký hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, trọng lượng mẫu 0,1288 gam.
- Tinh thể màu trắng bên trong 02 bịch nylon được hàn kín (ký hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, trọng lượng 0,9421 gam.
- Tinh thể màu trắng bên trong 02 đoạn ống hút được hàn kín hai đầu (ký hiệu M5) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, trọng lượng mẫu 0,1917 gam.
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 đoạn ống hút được hàn kín hai đầu (ký hiệu M6) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, trọng lượng mẫu 0,0939 gam.
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng, bên ngoài quấn băng keo màu đen (ký hiệu M7) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, trọng lượng 2,4555 gam.
- Tinh thể màu trắng bên trong 10 bịch nylon màu trắng hàn kín (bên trong của 03 bịch nylon màu đen và 03 bịch quấn băng keo màu đen (ký hiệu M8) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, trọng lượng 44,1750 gam.
Bản Cáo trạng số 67/QĐ/KSĐT ngày 27 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Ng T T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b, m Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm b, m Khoản 2, Khoản 5 Điều 194; Điểm p, o Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Ng T T từ 09 đến 10 năm tù; phạt bổ sung bị cáo một số tiền theo quy định sung công quỹ nhà nước; về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo người tham gia tố tụng khác, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi của bị cáo thể hiện: Ngày 07/8/2017, bị cáo Ng Thị T đã có hành vi bán ma túy cho đối tượng Thanh và Tho 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng thì bị bắt quả tang trong ngày, qua điều tra xác định bị cáo T mua ma túy của người khác (không xác định họ tên địa chỉ) thời gian từ tháng 7/2017 về bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy từ tháng 7/2017 đến ngày 07/8/2017 ngoài lần bị bắt là 08 lần, ngoài ra bị cáo mua ma túy về phân chia nhỏ ra bán nhiều lần cho nhiều người khác không xác định được, số ma túy thu giữ được qua giám định là 47,987 gam Methamphetamine, bị cáo khai số tiền thu lợi từ việc bán ma túy là 8.300.000 đồng. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, Kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác. Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm b, m Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
[3]. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Ma túy gây tác hại rất lớn đến xã hội và ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vì mục đích vụ lợi cao bị cáo đã nhiều lần mua ma túy về bán cho người khác, đây là tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Hiện nay tình hình mua bán và sử dụng chất ma túy ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này nên cần thiết xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục bị cáo sớm trở thành công dân tốt làm ăn lương thiện khi hòa nhập cộng đồng nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Tình tiết tăng nặng: Không.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, tự thú khai nhận, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm o, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự bị cáo được hưởng. Ngoài ra còn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo một số tiền để sung vào công quỹ nhà nước.
Đối với Lê M T và Lê T T, Yên T V, Trần T H, Nguyễn Văn T, Lương Văn Được có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện Châu Thành đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Thanh, Tho và đề nghị Công an xã Thành Long, Công an xã Hòa Hội xử phạt vi phạm hành chính đối với Hữu, Được, đối với Văn và T đang bị xử lý trong vụ án khác về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” riêng Lê C L qua xác minh không có ở địa phương nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ làm rõ xử lý sau.
[4]. Về xử lý vật chứng: Tài sản đã thu giữ được xem xét xử lý theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Số tiền 66.155.000 đồng của bị cáo T, trong đó có 300.000 đồng tiền bán ma túy bị bắt quả tang, số tiền còn lại 65.855.000 đồng không liên quan nên cần tuyên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo khai trong quá trình mua bán ma túy bị cáo thu lợi bất chính số tiền là 8.300.000đ, cần buộc bị cáo nộp lại tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Tại phiên tòa bị cáo khai bị cáo sử dụng 01 điện thoại di động, hiệu SAMSUNG DUOS màu trắng, số IMEI: 357189/05/836637/8 đã qua sử dụng, bên trong có 01 sim Vietel, bị hư nắp nhựa phía dưới, đã kiểm tra nội dung bên trong sử dụng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Còn 03 điện thoại di động và các giấy tờ khác không liên quan đến vụ án cần tuyên trả lại cho bị cáo gồm:
- 01 điện thoại di động, hiệu NOKIA N8 đã qua sử dụng, không có sim, không kiểm tra được số IMEI, đã kiểm tra nội dung bên trong. 352957/07/206919/3 đã qua sử dụng, nứt mặt kính trước, không có sim, đã kiểm tra nội dung bên trong.
- 01 điện thoại di động, hiệu SAMSUNG màu trắng, số IMEI: 355236030611918 đã qua sử dụng, nứt mặt kính trước, bên trong có 01 sim Viettel, đã kiểm tra nội dung bên trong.
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 290686032, mang tên Nguyễn Thị T;
- 01 hộ chiếu số C3521446, mang tên Nguyễn Thị T;
- 01 sổ hộ khẩu số 540095263 chủ hộ Huỳnh Văn Trưng; Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 04 bì thư được niêm phong, ghi chữ vụ 159/1, 159/2, 159/5, 159/6 có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh và chữ ký của Giám định viên Võ Quốc Thái.
- 02 bì thư được niêm phong, ghi chữ vụ 159/7 và 159/8 có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh và chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Nguyện.
- 09 đoạn ống hút nhựa;
- 01 cây kéo kim loại màu trắng;
- 04 bịch nhựa được hàn kín;
- 03 ống thủy tinh;
- 04 đoạn ống hút nhựa màu tím.
Giải tỏa lệnh kê biên tài sản số 03/L-CSĐT ngày 21/9/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm b, m Khoản 2 Điều 194; Điểm o, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt Nguyễn Thị T 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/8/2017.
Căn cứ Khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung bị cáo số tiền 30.000.000 đồng sung vào công quỹ Nhà Nước. Thời hạn nộp tiền một lần trong thời gian 06 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Buộc bị cáo nộp số tiền 8.300.000 đồng tiền thu lợi bất chính sung công quỹ Nhà Nước.
Tịch thu sung công quỹ Nhà Nước các tài sản gồm:
- Số tiền 300.000 đồng. 357189/05/836637/8 đã qua sử dụng, bên trong có 01 sim Vietel, bị hư nắp nhựa phía dưới, đã kiểm tra nội dung bên trong.
Tuyên trả lại cho bị cáo các tài sản gồm:
- 01 điện thoại di động, hiệu NOKIA N8 đã qua sử dụng, không có sim, không kiểm tra được số IMEI, đã kiểm tra nội dung bên trong.
- 01 điện thoại di động, hiệu SAMSUNG DUOS màu trắng, số IMEI: 352957/07/206919/3 đã qua sử dụng, nứt mặt kính trước, không có sim, đã kiểm tra nội dung bên trong.
- 01 điện thoại di động, hiệu SAMSUNG màu trắng, số IMEI: 355236030611918 đã qua sử dụng, nứt mặt kính trước, bên trong có 01 sim Viettel, đã kiểm tra nội dung bên trong.
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 290686032, mang tên Nguyễn Thị T;
- 01 hộ chiếu số C3521446, mang tên Nguyễn Thị T;
- 01 sổ hộ khẩu số 540095263 chủ hộ Huỳnh Văn Trưng;
- Số tiền 65.855.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 04 bì thư được niêm phong, ghi chữ vụ 159/1, 159/2, 159/5, 159/6 có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh và chữ ký của Giám định viên Võ Quốc Thái.
- 02 bì thư được niêm phong, ghi chữ vụ 159/7 và 159/8 có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh và chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Nguyện.
- 09 đoạn ống hút nhựa;
- 01 cây kéo kim loại màu trắng;
- 04 bịch nhựa được hàn kín;
- 03 ống thủy tinh;
- 04 đoạn ống hút nhựa màu tím.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đang quản lý. Kể từ ngày Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành ra quyết định thi hành nếu bị cáo chưa thi hành số tiền phải thi hành án, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Giải tỏa lệnh kê biên tài sản số 03/L-CSĐT ngày 21/9/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành.
Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo và người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 69/2017/HSST ngày 05/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 69/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về