Bản án 68/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Vũ Tiến C (tên khác: Công G), sinh năm 1990 tại Lâm Đồng; Nơi đăng ký thường trú: xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá (học vấn) 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Quang T và bà Vũ Thị N; Vợ Đỗ Thị Tuyết V và 02 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Tại bản án số 21/2012/HSST ngày 16-4-2012 bị Tòa án nhân dân huyện Di Linh xử phạt 12 tháng tù về các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08-12-2012, đã được xóa án tích; Bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Đỗ Ngọc P, sinh năm 1992 tại Lâm Đồng; Nơi đăng ký thường trú: xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá (học vấn) 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Ngọc H và bà Vũ Thị P; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Tại bản án số 57/2012/HSST ngày 05-9-2012 bị Tòa án nhân dân huyện Di Linh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 18- 02-2013, đã được xóa án tích. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Lâm Đồng theo Quyết định số 20/QĐ-TA ngày 14-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, có mặt.

- Bị hại: Ông Ngô Bá N, sinh năm 1960. Nơi cư trú: xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đỗ Thị Tuyết V, sinh năm 1990. Trú tại: xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 10 tháng 8 năm 2020, Vũ Tiến C gọi điện thoại cho Đỗ Ngọc P rủ P đi hái trộm sầu riêng để bán lấy tiền tiêu xài thì P đồng ý. C điều khiển xe mô tô biển số 49K1 – 27962 đến nhà đón P và đem theo một con dao Thái Lan, 01 giỏ nhựa để đựng sầu riêng. Sau đó, C chở P đi theo hướng xã H. Khi đến vườn của ông Ngô Bá N có nhiều cây sầu riêng nên C dừng xe lại và cả hai cùng đi bộ vào vườn để hái trộm sầu riêng. C cầm dao cắt sầu riêng còn P đem các trái sầu riêng C vừa hái được gom lại chổ cây cà phê cách nơi C hái sầu riêng 50 mét. Khi P đang đứng tại chổ gom sầu riêng, còn C tiếp tục cắt sầu riêng thì ông N phát hiện và truy hô, đuổi bắt C và P. C và P bỏ chạy được một đoạn đường thì bị người dân bắt giữ và đưa đến Công an xã Hòa Ninh làm việc, đồng thời thu giữ 16 trái sầu riêng loại Thái Dona nặng 68kg mà C và P đang trộm cắp.

Tại Kết luận số 138/KL-HĐĐG ngày 04-9-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Di Linh xác định giá trị 16 trái sầu riêng Thái Dona nặng 68 kg x 40.000 đồng/kg = 2.720.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố bị cáo Vũ Tiến C, Đỗ Ngọc P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

- Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử Đối với Vũ Tiến C: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 đề nghị xét xử bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án;

Đối với Đỗ Ngọc P: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 đề nghị xét xử bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Ông Ngô Bá N đã nhận được số tiền bồi thường 2.580.000 đồng do bị cáo Vũ Tiến C, không yêu cầu gì thêm.

- Về án phí: Các bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng:

Vũ Tiến C: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đỗ Ngọc P: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến thắc mắc hoặc khiếu nại về hành vi và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Vũ Tiến C, Đỗ Ngọc P đều đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, vì muốn có tiền để phục vụ nhu cầu của bản thân nên các bị cáo C và P đã có hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở của bị hại để trộm cắp tài sản trị giá 2.720.000 đồng. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận điều tra và cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Tiến C, Đỗ Ngọc P đều phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo đều là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc làm của mình là vi phạm pháp luật, nhưng bản tính tham lam, muốn có tiền để tiêu xài cho bản thân nhưng không chịu lao động chân chính nên đã cố ý phạm tội. Hành vi của các bị cáo không những trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Do đó, khi lượng hình cần cần buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian nhất định mới có đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng:

Căn cứ vào trích lục tiền án, tiền sự của Công an tỉnh Lâm Đồng và lý lịch thể hiện: Bị cáo Vũ Tiến C và Đỗ Ngọc P không có tiền án trong tàng thư, cơ sở dữ liệu do phòng Pv06 quản lý.

Nhân thân của Vũ Tiến C: Tại bản án số 21/2012/HSST ngày 16-4-2012 bị Tòa án nhân dân huyện Di Linh xử phạt 12 tháng tù về các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08-12-2012, đã được xóa án tích.

Nhân thân của Đỗ Ngọc P: Tại bản án số 57/2012/HSST ngày 05-9-2012 bị Tòa án nhân dân huyện Di Linh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 18-02-2013, đã được xóa án tích. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Lâm Đồng theo Quyết định số 20/QĐ-TA ngày 14-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo, nên cần áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Riêng Vũ Tiến C đã tự nguyện bồi thường thiệt hại toàn bộ cho bị hại ông Ngô Bá N áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cũng đủ tác dụng đối với các bị cáo, đồng thời thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

- Trong vụ án này, bị cáo C và P là đồng phạm, đều là người thực hành, trực tiếp thực hiện tội phạm, khi thực hiện hành vi cả hai cùng tích cực như nhau. C là người khởi xướng đi trộm cắp tài sản, khi thấy cây sầu riêng C là người khởi xướng trộm cắp trái sầu riêng, khi thực hiện tội phạm C là người trực tiếp hái toàn bộ trái sầu riêng, P là người đem sầu riêng ra xe để đem đi tiêu thụ. Xét tính chất và mức độ tham gia phạm tội thì cả hai cần có mức hình phạt tương ứng với hành vi đã thực hiện.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Ngô Bá N đã nhận số tiền bồi thường 2.580.000 đồng, không có yêu cầu gì thêm, về hình phạt xin giảm nhẹ cho hai bị cáo, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng: 01 giỏ nhựa và 01 con dao cán nhựa màu vàng dài 10cm, lưỡi dao dài 10cm là công cụ, phương tiện phạm tội cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo C và P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Tiến C và Đỗ Ngọc P đều phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Điều 38. Riêng Vũ Tiến C áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Tiến C 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

2. Về tang vật: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy 01 giỏ nhựa và 01 con dao cán nhựa màu vàng dài 10cm, lưỡi dao dài 10cm.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30-11-2020).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Tiến C, Đỗ Ngọc P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 68/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;