TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 09/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 7 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Phước T, sinh năm 1989 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi cư trú: Tổ 8, khu phố B, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn D, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1971; vợ, con chưa có; tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/7/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên phạt mức án 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), đến ngày 24/3/2020 chấp hành xong hình phạt tù; Bị cáo tại ngoại điều tra.
- Người bị hại: Anh Đào Nhân Q, sinh năm 1979, địa chỉ: Xóm V, xã V, huyện Y, tỉnh N (vắng mặt); Anh Võ Xuân K, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn V, xã C, huyện P, tỉnh B (vắng mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phước T - có bà Nguyễn Thị Hoài P – Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đồng Nai.
- Người phiên dịch cho bị cáo Nguyễn Phước T - có bà Phạm Thị Bạch H - Phó Giám đốc Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật tỉnh Đồng Nai.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1992, địa chỉ: khu phố B, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 16/8/2019, Nguyễn Phước T (là đối tượng câm điếc) điều khiển xe mô tô biển số 72E1-517.75 đi một mình đến công trình dự án thoát nước thuộc công ty Cổ phần A đang thi công công trình trên tuyến đường 25B thuộc khu phố P, thị trấn H, huyện N. T thấy 01 thùng Container là nơi Công ty A đặt tại đây để làm văn phòng làm việc và thấy cửa thùng Container khép hờ không khóa cửa, bên trong có tài sản nên T nảy sinh ý định trộm cắp. T liền mở cửa Container vào bên trong trộm cắp 01 laptop màu đen, nhãn hiệu Dell inspiron 153576 và 01 điện thoại di động hiệu Vsmast của anh Đào Nhân Q; 01 laptop nhãn hiệu Lenovo L502 và 01 điện thoại di động hiệu Ximiao redmi note 4 của anh Võ Xuân K (là các công nhân của Công ty A). Sau khi trộm cắp được tài sản trên, T đem về cất giấu tại nhà ở khu phố B, phường P, thị xã P, tỉnh Bà rịa – Vũng Tàu. Đến khoảng 01 giờ cùng ngày, anh Võ Xuân K phát hiện bị trộm cắp các tài sản nêu trên nên đến Công an thị trấn H trình báo, đồng thời định vị được số tài sản trên đang ở nhà của T tại khu phố B, phường P, thị xã P, tỉnh Bà rịa – Vũng Tàu. Công an thị trấn H phối hợp cùng Công an phường P, thị xã P, tỉnh Bà rịa – Vũng Tàu tiến hành làm việc với T và truy thu tài sản T trộm cắp. Tại Cơ quan Công an, T đã khai nhận hành vi của mình.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 154/KLĐG-HDĐG ngày 05/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 cái laptop nhãn hiệu Lenovo L502 (còn lại 80% giá trị sử dụng), có giá trị là 4.000.000 đồng; 01 cái laptop nhãn hiệu Dell inspiron 153576 (còn lại 80% giá trị sử dụng), có giá trị là 3.200.000 đồng; 01 điện thoại hiệu Ximiao redmi note 4 (còn lại 80% giá trị sử dụng), có giá trị là 2.800.000 đồng, 01 cái điện thoại hiệu Vsmast (còn lại 80% giá trị sử dụng), có giá trị là 2.400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 12.400.000 đồng.
Tang vật thu giữ:
+ 01 laptop màu đen nhãn hiệu Dell inspiron 153576 và 01 điện thoại di động hiệu Vsmast đã trả lại cho anh Đào Nhân Q; 01 laptop nhãn hiệu Lenovo L502 và 01 điện thoại di động hiệu Ximiao redmi note 4 đã trả lại cho anh Võ Xuân K.
+ 01 xe mô tô biển số 72E1-517.75 đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Kim H.
Quá trình điều tra, bị can Nguyễn Phước T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị hại, nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số: 35/CT.VKS-NT ngày 13/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Phước T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị: Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm s, p khoản 1, 2 Điều 51Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Phước T từ 08 đến 10 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra vấn đề giải quyết.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phước T đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T, xử bị cáo T với mức án thấp nhất và miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T, do bị cáo là người khuyết tật.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Bị cáo Nguyễn Phước T không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Nhơn Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo Nguyễn Phước T có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thừa nhận:
Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 16/8/2019, Nguyễn Phước T (là đối tượng câm điếc) đã có hành vi đột nhập vào 01 thùng Container là văn phòng làm việc của Công ty A lén lút lấy trộm cắp 01 laptop màu đen, nhãn hiệu Dell inspiron 153576 và 01 điện thoại di động hiệu Vsmast của anh Đào Nhân Q, 01 laptop nhãn hiệu Lenovo L502 và 01 điện thoại di động hiệu Ximiao redmi note 4 của anh Võ Xuân K (là công nhân của Công ty A) với tổng trị giá là 12.400.000 đồng đem về cất giấu tại nhà ở khu phố B, phường P, thị xã P, tỉnh Bà rịa – Vũng Tàu, sau đó thì bị phát hiện bắt giữ.
Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai người làm chứng; người bị hại và các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Cho thấy bị cáo T đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh Đào Nhân Q và Võ Xuân K, với tổng trị giá trị là 12.400.000 đồngvà hành vi phạm tội đã thực hiện xong.
Nên có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Phước T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) có mức hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Do đó, cáo trạng số 35/CT.VKS-NT ngày 13/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch truy tố bị cáo Nguyễn Phước T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Ngày 10/3/2019 bị cáo T có hành vi trộm cắp tài sản, trong thời gian cho tại ngoại thì thực hiện hành vi phạm tội này, đến ngày 22/7/2019, bị cáo T bịTAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tuyên phạt mức án 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” đối với hành vi phạm tội ngày 10/3/2019.
Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do Nguyễn Phước T thực hiện làít nghiêm trọng,nhưng hành vi là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, bản thân bị cáo có nhân thân xấu bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản trong vụ án khác.Nên cần thiết áp dụng hình phạt tù giam,cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòabị cáo Nguyễn Phước T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người bị khuyết tật nặng (câm, điếc bẩm sinh) khả năng nhận thức có phần hạn chế. Do đó cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p, s khoản 1, 2 Điều 51Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của chính sách pháp luật hình sự.
Đối với chị Nguyễn Thị Kim H là người cho Nguyễn Phước T mượn xe mô tô biển số 72E1-517.75, chị H không biết T sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch không xử lý là phù hợp quy định pháp luật.
Xét lời luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt là phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.
Xét đề nghị của Người bào chữa phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.
[4] Về xử lý vật chứng:
+ 01 laptop màu đen nhãn hiệu Dell inspiron 153576; 01 điện thoại di động hiệu Vsmast; 01 laptop nhãn hiệu Lenovo L502; 01 điện thoại di động hiệu Ximiao redmi note 4 là tài sản hợp pháp của anh anh Đào Nhân Q và Võ Xuân K, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu làthỏa đáng.
[5]. Về trách nhiệm dân sự:
- Tài sản đã thu hồi trả cho chủ sở hữu, người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xét.
[6] Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Phước T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm s, p khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phước T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước T 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án phạt tù.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Phước T.
Bị cáo; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án./.
Bản án 64/2020/HS-ST ngày 09/07/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 64/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về