TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG, AN TOÀN Ở NƠI ĐÔNG NGƯỜI
Trong ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 81/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3842019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Công L, sinh năm 1982, tại tỉnh Sóc Trăng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 1247/104, Khu phố X, phường Phú Thuận, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 860/45, Khu phố Y, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Cơ khí; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn N (chết) và bà: Lê Thị T (chết); Có vợ là: Trần Thị Cẩm Giang, sinh năm 1988 và có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.
* Bị hại: Ông Huỳnh Kim L, sinh năm 1993 (Chết)
Người đại diện hợp pháp của người bị hại:
- Ông Huỳnh Phát H – Có mặt
- Bà Đặng Thị C – Vắng mặt
Cùng trú tại: 262 ấp A, xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh.
* Người liên quan:
1/ Ông Nguyễn Hồng P, sinh năm 1965 – Vắng mặt
Trú tại: 2552/15 Đường Huỳnh Tấn Phát, Ấp X, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
2/ Ông Đặng Mộng L, sinh năm 1969 – Có mặt
Trú tại: B Đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Ông Nguyễn Quang H, sinh năm 1996 – Có mặt
Trú tại: Y Khu phố 3, phường Phú Thuận, Quận 7, Tp. Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2016, Nguyễn Công L thuê của ông Nguyễn Hồng P một khu đất trống tại Tổ 9, Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè để làm bãi sửa chữa bồn nước, xe ô tô. Khi nào có người đến sửa chữa bồn thì L trả cho ông Phong 100.000 đồng/ngày, khi không có việc thì coi như L không sử dụng mặt bằng và không phải trả tiền thuê cho ông Phong.
Trong quá trình sửa chữa, gia công bồn nước, xe ô tô tại địa điểm nói trên L có thuê 02 nhân công là Nguyễn Quang H và Huỳnh Kim L làm việc theo dạng làm ngày nào thì hưởng lương ngày đó (350.000đồng/ngày/người).
Ngày 29/11/2018, ông Đặng Mộng L mua 01 bồn chứa nhiên liệu (xăng, dầu) cũ, trên thân bồn có ký hiệu biển số 51C-439.41 với giá 25.000.000 đồng từ bãi phế liệu trên đường Nguyễn Văn Linh, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh và thuê xe chở đến bãi sửa chữa của L để thuê L sửa chữa lại với giá tiền công là 20.000.000 đồng.
Sau khi nhận bồn chứa nhiên liệu L kiểm tra và phát hiện thấy rằng bồn đã được cải tạo thành 04 khoang, trong đó có khoang thứ 04 còn chứa xăng dầu nên L đã mở các nắp đậy tại các vị trí nạp nhiên liệu của bồn cho hơi xăng dầu tồn dư bên trong thoát ra ngoài để đến sang hôm sau thì sẽ cải tạo lại bồn.
Đến sáng ngày 30/11/2018, L phân công Huỳnh Kim L bơm nước vào khoang chứa nhiên liệu thứ 4, cắt mở nắp vị trí bơm nhiên liệu thứ 2, cắt mở mặt trên khoang chứa thứ 4 của bồn chứa nhiên liệu (xăng, dầu) cũ. Tại bãi sửa chữa L phân công Nguyễn Quang Hiếu tiếp tục sửa chữa một chiếc xe khác của khách gửi sửa. Sau đó, L giúp đưa ống dẫn nước để L bơm nước vào khoang chứa thứ 4, L đưa dụng cụ hàn hơi cho L để cắt mở nắp vị trí bơm nhiên liệu số 2. Sau khi cắt mở được nắp vị trí bơm nhiên liệu số 2 xong, Huỳnh Kim L thông báo nước đã đầy nhưng L cũng không kiểm tra xem thực tế đã đầy nước ở khoang thứ 4 hay chưa, L ngắt nước không bơm nước nữa. Khi L đang hàn mở mặt trên của khoang thứ 4 thì xảy ra cháy, nổ bồn kim loại dẫn đến việc Huỳnh Kim L ngay lập tức bị hất văng xuống đất bị thương, được đưa đi cấp cứu và đã chết tại bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh cùng ngày.
Tại Kết luận giám định số 379/C09B ngày 17/12/2018 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:
- Loại trừ nguyên nhân cháy - nổ bồn chứa nhiên liệu (xăng, dầu) do áp suất bên trong cao hơn ứng suất chịu lực của thành khoang chứa dầu (hiện tượng nổ vật L).
- Loại trừ nguyên nhân cháy - nổ bồn chứa nhiên liệu (xăng, dầu) do thuốc nổ, thuốc pháo hoặc vật liệu nổ.
- Nguyên nhân cháy - nổ bồn chứa nhiên liệu (xăng, dầu), trên thân bồn có ký hiệu biển số 51C-439.41 là do lượng hơi dầu còn lại bên trong khoang chứa dầu số 02 đạt tới giới hạn nồng độ nguy hiểm cháy - nổ khi gặp các tia lửa mang nhiệt độ cao hình thành bởi quá trình cắt kim loại (sử dụng thiết bị hàn cắt oxy gas) đã lập tức bốc cháy rất nhanh trong thể tích khoang kín, tạo áp lực nổ rất lớn phá vỡ kết cấu khoang chứa dầu số 02 và gây ra vụ cháy - nổ.
Tại Kết luận giám định pháp y tử thi số 62-19/KLGĐ-PY ngày 15/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:
- Nguyên nhân chết: Huỳnh Kim L chết do đa chấn thương.
- Trong máu không tìm thấy cồn.
- Trong máu và nước tiểu không tìm thấy ma túy.
Ngày 20/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Huỳnh Kim L.
Tại cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Công L đã thừa nhận toàn bộ hành vi sự việc phạm tội như đã nêu trên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Công L về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng số 68/CT-VKS-NB ngày 05 tháng 11 năm 2019 và sau khi phân tích, luận tội đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 295; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Công L 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Nguyễn Công L đã bồi thường cho gia đình bị hại Huỳnh Kim L số tiền 74.000.000 đồng. Người đại diện hợp pháp của bị hại Huỳnh Kim L đã làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt và xin cho bị cáo được hưởng án treo đồng thời không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Đối với chiếc bồn chứa nhiên liệu của ông Đặng Mộng Lộc bị hư hỏng, ông Đặng Mộng Lộc đã tự khắc phục, sửa chữa và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và không có ý kiến, yêu cầu gì.
Về việc xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy do các vật chứng sau đây không còn giá trị sử dụng:
- 01 bộ khóa van bình màu xanh gắn với 02 đoạn ống dây màu xanh, đường kính 01cm (01 đoạn dài 15m không gắn kìm hàn; 01 đoạn dài 8,5m có gắn kìm hàn);
- 01 bộ khóa van bình màu đỏ gắn với 02 đoạn ống dây màu đỏ, đường kính 01cm (01 đoạn dài 15m không gắn kìm hàn, 01 đoạn dài 8,5m có gắn kìm hàn);
- 01 chai nhựa dung tích 500ml chứa mẫu chất khí thu bên trong khoang bồn chứa nhiên liệu có ký hiệu biển số 51C-439.41;
- 01 chai nhựa dung tích 500ml chứa mẫu chất lỏng nàu xanh - đen thu bên trong khoang bồn chứa nhiên liệu có ký hiệu biển số 51C-439.41;
- 01 túi niL bên trong chứa mẫu thu sản phẩm cháy và mảnh kim loại.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Công L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong Cáo trạng, nội dung phân tích, luận tội của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, đồng thời bị cáo cho rằng mình không bị oan và trong lời nói sau cùng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được mức hình phạt nhẹ để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án; Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
{1} Về hành vi tố tụng, thẩm quyền tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra công an huyện Nhà Bè, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố; bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người liên quan cũng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
{2} Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Công L thừa nhận: Bị cáo là người thuê và sử dụng người lao động là ông Huỳnh Kim L để làm công việc hàn mở nắp bồn chứa nhiên liệu nhưng bị cáo không có giấy chứng nhận an toàn lao động theo quy định, bị cáo đã bố trí người lao động cũng chưa qua đào tạo về công việc hàn hơi, chưa được huấn luyện an toàn lao động và cấp chứng chỉ về an toàn lao động khi thực hiện công việc hàn hơi. Bị cáo cũng không có biện pháp an toàn cụ thể, phòng chống cháy, nổ, ngộ độc, không kiểm tra, giám sát an toàn lao động, không xây dựng các biện pháp làm việc an toàn trước khi thực hiện công việc; không có nội quy, quy trình lao động; không tổ chức huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động đúng công việc cho người lao động có ý thức ngăn ngừa nguy cơ xảy ra tai nạn cho bản thân khi giao việc cho người lao động thực hiện công việc hàn hơi và không trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động làm việc. Các hành vi nêu trên của bị cáo đã vi phạm quy định tại các Điều 136, 138, 139, 149 và 150 của Bộ luật Lao động; vi phạm quy định tại các Điều 7, 14, 15, 16 và 23 Luật An toàn lao động, vệ sinh lao động; vi phạm quy định tại các mục 2.2.1.4, 4.1 và 2.2.1.5 của QCVN 17:2013/BLĐTBXH “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn lao động đối với công việc hàn hơi, dẫn đến việc làm nổ bồn chứa nhiên liệu cũ khi Huỳnh Kim L đang hàn mở nắp trên bồn chứa nhiên liệu, hậu quả làm Huỳnh Kim L bị hất văng xuống đất và chết do đa chấn thương.
Sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với toàn bộ lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, lời khai của người liên quan, phù hợp với kết quả giám định nguyên nhân cháy nổ, nguyên nhân chết của người bị hại cũng là người lao động do bị cáo đã thuê và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tang vật thu giữ.
Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 295 của Bộ luật Hình sự.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 295 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
{3} Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định về đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động và an toàn ở nơi đông người, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng mới có khả năng cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và để phòng ngừa chung.
Tuy nhiên xét tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ hối cải, bị cáo cũng đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, đồng thời người đại diện hợp pháp của bị hại đã làm đơn bãi nại và tại phiên tòa đã xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo. Xét thấy bị cáo cũng có nơi cư trú rõ ràng nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và xét cho bị cáo được hưởng án treo với một thời gian thử thách nhất định theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự cũng đủ khả năng răn đe, giáo dục dục bị cáo.
{4} Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Nguyễn Công L đã bồi thường cho gia đình bị hại Huỳnh Kim L số tiền 74.000.000 đồng. Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát cũng không đề nghị nên Hội đồng xét xử không đề cập, giải quyết.
Đối với chiếc bồn chứa nhiên liệu của ông Đặng Mộng Lộc bị hư hỏng, ông Đặng Mộng Lộc đã tự khắc phục, sửa chữa và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và không có ý kiến, yêu cầu gì. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát cũng không đề nghị nên Hội đồng xét xử không đề cập, giải quyết.
{5}Về việc xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự:
- 01 bộ khóa van bình màu xanh gắn với 02 đoạn ống dây màu xanh, đường kính 01cm (01 đoạn dài 15m không gắn kìm hàn; 01 đoạn dài 8,5m có gắn kìm hàn);
- 01 bộ khóa van bình màu đỏ gắn với 02 đoạn ống dây màu đỏ, đường kính 01cm (01 đoạn dài 15m không gắn kìm hàn, 01 đoạn dài 8,5m có gắn kìm hàn);
- 01 chai nhựa dung tích 500ml chứa mẫu chất khí thu bên trong khoang bồn chứa nhiên liệu có ký hiệu biển số 51C-439.41;
- 01 chai nhựa dung tích 500ml chứa mẫu chất lỏng nàu xanh - đen thu bên trong khoang bồn chứa nhiên liệu có ký hiệu biển số 51C-439.41;
- 01 túi niL bên trong chứa mẫu thu sản phẩm cháy và mảnh kim loại.
Các vật chứng nêu trên không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy.
{5} Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công L phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 295; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công L 03 (Ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/11/2019).
Giao người được hưởng án treo cho Ủy ban nhân dân phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy:
- 01 bộ khóa van bình màu xanh gắn với 02 đoạn ống dây màu xanh, đường kính 01cm (01 đoạn dài 15m không gắn kìm hàn; 01 đoạn dài 8,5m có gắn kìm hàn);
- 01 bộ khóa van bình màu đỏ gắn với 02 đoạn ống dây màu đỏ, đường kính 01cm (01 đoạn dài 15m không gắn kìm hàn, 01 đoạn dài 8,5m có gắn kìm hàn);
- 01 chai nhựa dung tích 500ml chứa mẫu chất khí thu bên trong khoang bồn chứa nhiên liệu có ký hiệu biển số 51C-439.41;
- 01 chai nhựa dung tích 500ml chứa mẫu chất lỏng nàu xanh - đen thu bên trong khoang bồn chứa nhiên liệu có ký hiệu biển số 51C-439.41;
- 01 túi niL bên trong chứa mẫu thu sản phẩm cháy và mảnh kim loại. (Theo Phiếu nhập kho ngày 05/11/2019).
3. Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016;
Buộc bị cáo Nguyễn Công L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Áp dụng các Điều 331, 332 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo, người liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Người liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 68/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội vi phạm quy định an toàn lao động, vệ sinh lao động, an toàn ở nơi đông người
Số hiệu: | 68/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về