TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 66/2021/HSST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Hôm nay, ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2021/TLST-HS ngày 09/9/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2021/QĐXXST-HS ngày 15/9/2021 đối với các bị cáo:
1. Châu Văn Ph, sinh ngày 11 tháng 3 năm 2003, tại huyện L, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn Ph, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Châu Văn H và bà Lê Thị T; Tiền sự, tiền án: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lệ Thủy từ ngày 13 tháng 6 năm 2021 cho đến nay, có mặt.
2. Lê Xuân Th, sinh ngày 22 tháng 3 năm 2004, tại huyện L, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn Ph, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Th và bà Trần Thị H; Đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 17 tuổi 02 tháng 22 ngày; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự: Ngày 18/6/2021, bị Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện L xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ, cất giấu trong người đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích.
Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lệ Thủy từ ngày 13/6/2021 đến ngày 19/6/2021 được Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy hủy bỏ Quyết định tạm giữ, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt.
Người đại diện của bị cáo Lê Xuân Th: Chị Trần Thị H sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn Ph, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình. (Là mẹ đẻ của bị cáo). Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Lê Xuân Th: Ông Phan Trọng H, Trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Bình; địa chỉ: Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị T, sinh năm 1979 Địa chỉ: Đội 3, thôn Ph, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 23 giờ ngày 12/6/2021, Lê Xuân Th đến nhà Châu Văn Ph ở thôn Ph, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình rủ đi mua ma túy sử dụng. Ph đồng ý và điều khiển xe máy biển kiểm soát 73AG- 021… của chị Lê Thị T (mẹ của Ph) chở Th đi từ xã A đến xã S. Khi đến đoạn đường thuộc thôn L, xã S, cả hai gặp một người đàn ông, Th bảo Ph dừng xe đứng chờ. Th đi bộ đến gặp người đàn ông đó và hỏi mua ma túy, người đàn ông đồng ý bán cho Th 03 viên ma túy với giá 200.000 đồng. Th cầm số ma túy trên cùng với Ph quay về, đến đoạn đường liên xã thuộc thôn Ng, xã S thì gặp tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện L phối hợp với Công an xã S đang tuần tra, kiểm soát trên địa bàn xã S. Thấy Th và Ph có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra thì phát hiện trong miệng của Th có 01 ống nhựa màu trắng chứa 03 viên nén màu hồng, hình tròn, dạng thuốc tân dược, trên mỗi viên nén đều có chữ “WY”. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ 01 ống nhựa màu trắng chứa 03 viên nén màu hồng; 02 điện thoại di động gắn 02 sim; 01 xe máy.
Ngày 22/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã trả lại xe máy biển kiểm soát 73AG- 021… cho chị Lê Thị T.
Tại bản kết luận giám định số 832/GĐ-PC09 ngày 17/6/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 03 viên nén màu hồng gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0,285 gam. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Hoàn trả sau giám định khối lượng 0,175 gam và vỏ bao gói.
Bản Cáo trạng số: 68/CT-VKSNDLT ngày 09/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố Châu Văn Ph, Lê Xuân Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Châu Văn Ph từ 12 đến 18 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Xuân Th từ 12 đến 18 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ khối lượng 0,175g (Không phẩy một trăm bảy mươi lăm gam) Methamphetamine mẫu sau giám định và vỏ bao gói. Trả lại cho Châu Văn Ph 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 Plus màu đen, bên trong lắp sim số 0932378…; Trả lại cho Lê Xuân Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 màu đen, bên trong lắp sim số 03637….
Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Lê Xuân Th trình bày: Xét về nguyên nhân và điều kiện phạm tội: Bị cáo trong độ tuổi vị thành niên, nghỉ học từ năm lớp 7 nên nhận thức còn hạn chế; gia đình khó khăn, bố mẹ phải đi làm nên thiếu thời gian quản lý, giáo dục con cái. Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Thời điểm phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi; căn cứ độ tuổi và khả năng nhận thức của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Xuân Th mức án 12 tháng tù là vừa phải, tạo cơ hội cho bị cáo làm lại cuộc đời.
Tại phiên tòa, các bị cáo Châu Văn Ph, Lê Xuân Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát; trong lời nói sau cùng các bị cáo có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Châu Văn Ph, Lê Xuân Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau; phù hợp với tang vật vụ án đã thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[3] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo, có căn cứ xác định: Vào khoảng 23 giờ ngày 12/6/2021, Lê Xuân Th đến nhà Châu Văn Ph rủ Ph đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng. Ph đồng ý và điều khiển xe máy biển kiểm soát 73AG- 021… chở Th đến thôn L, xã S mua 03 viên hồng phiến với giá 200.000 đồng; khi cả hai chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang. Theo kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 03 viên nén màu hồng thu giữ ở Lê Xuân Th là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,285 (không phẩy hai trăm tám mươi lăm gam). Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy theo Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”...
Tại thời điểm phạm tội, Lê Xuân Th 17 tuổi 02 tháng 22 ngày. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Theo kết luận giám định, có cơ sở xác định: Châu Văn Ph, Lê Xuân Th đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,285g (Không phẩy hai trăm tám mươi lăm gam) nhằm mục đích sử dụng. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy theo Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận Châu Văn Ph, Lê Xuân Th phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thuỷ và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[4] Đánh giá về nhân thân và tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo Châu Văn Ph không có tiền sự, tiền án và có nhân thân tốt. Lê Xuân Th có 01 tiền sự, thể hiện nhân thân không tốt; Th là người dưới 18 tuổi nhưng chủ động bỏ tiền và rủ rê Ph đi mua ma túy về để cả hai cùng sử dụng. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, đồng phạm nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ nên không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Xét hành vi tàng trữ chất ma túy của các bị cáo đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, theo đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Trong vụ án, Châu Văn Ph, Lê Xuân Th khai mua ma túy của người đàn ông không quen biết, do đó không xác định được danh tính và địa chỉ cụ thể, Hội đồng xét xử đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý theo thẩm quyền. Chị Lê Thị T không biết Châu Văn Ph sử dụng xe máy của mình để đi mua ma túy nên không phạm tội.
[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã trả lại xe máy biển kiểm soát 73AG - 021… cho chị Lê Thị T phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với khối lượng 0,175g (Không phẩy một trăm bảy mươi lăm gam) Methamphetamine, mẫu sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ và vỏ bao gói không có giá trị, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 Plus màu đen, bên trong lắp sim số 0932378864; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 màu đen, bên trong lắp sim số 0363715412 không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho Châu Văn Ph, Lê Xuân Th là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Về án phí: Các bị cáo Châu Văn Ph, Lê Xuân Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Châu Văn Ph, Lê Xuân Th phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
2/ Về hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Châu Văn Ph 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/6/2021.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; các khoản 1, 6 Điều 91 và khoản 1 Điều 101; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Xuân Th 12 (Mười hai) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/6/2021 đến ngày 19/6/2021. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Châu Văn Ph với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày 30/9/2021 để đảm bảo thi hành án theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.
3/ Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:
- Tịch thu tiêu hủy khối lượng 0,175g (Không phẩy một trăm bảy mươi lăm gam) Methamphetamine mẫu sau giám định và vỏ bao gói;
- Trả lại cho Châu Văn Ph 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 Plus màu đen, bên trong lắp sim số 093237…. Trả lại cho Lê Xuân Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 màu đen, bên trong lắp sim số 036371…..
Các vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/9/2021 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Lệ Thuỷ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình.
4/ Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Xử buộc các bị cáo Châu Văn Ph, Lê Xuân Th mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
5/ Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (29/9/2021) để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm
Bản án 66/2021/HSST ngày 29/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 66/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về