TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN
BẢN ÁN 66/2021/HSST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 3 năm 2021 tại Hội trường tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Họ và tên: Nguyễn Mạnh H, sinh ngày 29 tháng 12 năm 1978.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm P.H, xã H.B, huyện Đ.H, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo : Thiên chúa; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12. Con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1942, con bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1949, gia đình có 4 anh em, bị cáo là con thứ hai. Có vợ Nguyễn Thị May, sinh năm 1979, có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Không.
- Nhân thân:
+ Tại Quyết định số 172/QĐ-UBND ngày 28/01/2011 của Ủy ban nhân dân huyện Đ.H về việc đưa Nguyễn Mạnh H (là người nghiện chất ma Ty) vào Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội TN. Thời hạn 12 tháng.
+Tại Bản án số 40/2015/HSST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đ.H, tỉnh TN, xử phạt Nguyễn Mạnh H 36 tháng về tội “Mua bán trái phép chất ma Ty”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 14/5/2017. Chấp hành xong án phí, tiền phạt, truy thu ngày 29/9/2020.
Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/11/2020 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1971.
Địa chỉ P.H, xã H.B, huyện Đ.H, tỉnh TN, Vắng mặt);
Người chứng kiến: Ông Đỗ Văn Th, sinh năm 1968. Địa chỉ: xóm C.R, xã C. N, thành phố TN (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9 giờ ngày 29/11/2020, tổ công tác của Công an xã C. N làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên địa bàn. Khi đi đến khu vực xóm C, xã C. N, thành phố TN thì phát hiện 2 người đàn ông đang điều xe mô tô BKS: 20L8-4887 lưu thông trên đường có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người điều khiển xe mô tô khai họ tên Nguyễn Văn H2, sinh năm 1971, Hộ khẩu thường trú xóm P.H, xã H.B, huyện Đ.H, tỉnh TN. Người ngồi sau khai tên là Nguyễn Mạnh H và tự giác lấy từ trong túi áo phía trước ra giao nộp 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (theo H khai là Heroine). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.
Tiến hành mở niêm phong cân xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của H có khối lượng 0,153 gam (niêm phong ký hiệu A gửi giám định).
Tại kết luận giám định số 1418/LT-KTHS ngày 04/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: mẫu chất bột màu trắng trong phòng bì ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,153 gam.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Mạnh H khai nhận: Khoảng 8 giờ ngày 29/11/2020 H nhờ anh trai là Nguyễn Văn H2 đưa xuống thành phố TN, H bảo H2 dừng xe chờ. Sau đó H xuống xe đi bộ vào trong ngõ khoảng 10 mét thì gặp và mua của 01 nam thanh niên không rõ lai lịch 01 gói Heroine được gói bằng giấy màu trắng với giá 200.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân. Mua xong, H cất giấu gói ma túy vào túi áo khoác bên trái rồi đi ra chỗ anh H2 đang đứng. Anh H2 điều khiển xe chở H đi về nhà. Khi đi được khoảng 100 mét thì bị tổ công tác Công an xã C. N bắt quả tang như trên.
Lời khai nhận của Nguyễn Mạnh H phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định..
Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu A; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đen, BKS 20L8-4887. Đăng ký xe mang tên Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1981, Hộ khẩu thường trú tổ 21, phường Tr.T, thành phố TN. Quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Văn H2 đã mua chiếc xe trên vào năm 2013; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H2; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn H2; 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 20L8-4887. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thàn h phố TN chờ xử lý.
Tại bản Cáo trạng số 51/CT-VKSTPTN ngày 05 tháng 02 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.
Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Nguyễn Manh H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không pH2 chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Mạnh H từ 24 đến 30 tháng tù giam, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A. Vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng. Hoàn trả ông Nguyễn Văn H2 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đen, BKS 20L8- 4887. Đăng ký xe mang tên Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1981, trú tại tổ 21, phường Tr.T, thành phố TN. Ông Nguyễn Văn H2 đã mua chiếc xe trên vào năm 2013; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H2; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn H2; 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 20L8-4887 (là tài sản cá nhân của ông Nguyễn Văn H2 không liên quan đến vụ án).
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 9 giờ ngày 29/11/2020, tại khu vực xóm Cầu Đá, xã C. N, thành phố Thai Nguyên , Nguyễn Mạnh H đang có hành vi tàng trữ 0,153 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an xã C. N, thành phố TN phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.
[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà nước quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,153 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự . Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung điều 249 quy định:
"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c, Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.
[5] Về nhân thân bị cáo có nhân thân rất xấu như: Bị cáo đã từng bị xét xử bằng 01 bản án về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; có 01 Quyết định của UBND huyện Đ.H về việc đưa người nghiện chất ma túy vào Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội TN.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, có nhân thân rất xấu không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật, Hội đồng xét xử cân nhắc có một mức án nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.
Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp, tương xứng với nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
[6] Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu A. Vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H2; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn H2; 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS: 20L8-4887 và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đen, BKS: 20L8-4887 (đăng ký xe mang tên Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1981, HKTT tổ 21, phường Tr.T, thành phố TN).
Quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Văn H2 đã mua chiếc xe trên vào năm 2013; Toàn bộ tài sản trên là tài sản cá nhân của ông Nguyễn Văn H2. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ông H2 khai không biết H đi mua ma Ty nên cần trả lại cho ông H2 quản lý sử dụng.
[7] Về hình phạt bổ sung và án phí Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên bị cáo khai thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.
Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Đối với số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Mạnh H khai đã mua của một nam thanh niên không rõ lai lịch. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.
Đối với ông Nguyễn Văn H2 là người điều khiển xe mô tô chở H. Quá trình điều tra xác định H2 không biết việc H đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không xem xét xử lý.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
1. Bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Mạnh H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;
Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự vµ §iều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A, có ghi hoàn trả 0,141 gam mẫu A còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A vụ Nguyễn Mạnh H, sinh 1978, phạm tội về ma túy, mặt sau có 03 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN và 03 chữ ký của Vũ Quang H, Trần Đức Th, Nguyễn Thành Tr.
- Trả cho ông Nguyễn Văn H2 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H2, sinh năm 1971; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn H2; 01 (Một) giấy đăng ký xe mô tô BKS 20L8-4887 và 01 (một) xe mô tô gắn biển kiểm soát 20L8-4887, màu sơn đen, nhãn hiệu: YAMAHA, số loại SIRIUS, dung tích xi lanh: 110, số máy: 5C61-115225; số khung: Y115225, tình trạng xe: xe cũ đã qua sử dụng. Theo biên bản giao nhận vật chứng số 206 ngày 05/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo pH2 nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án 66/2021/HSST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 66/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về