Bản án 66/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn A (tên gọi khác: B), sinh năm 1995 tại Bình Phước; nơi cư trú khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Xuân P, sinh năm 1966 và bà Đồng Thị N, sinh năm 1972; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/01/2019 cho đến nay “có mặt”.

Người bị hại: Công ty TNHH MTV dịch vụ thuê xe L. Địa chỉ: Đường T, khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Người đại diện theo pháp luật của Công ty: Anh Lê Minh T, sinh năm 1987; nơi cư trú tổ 4, khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước - Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH MTV dịch vụ thuê xe Lê Hoàng “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Hồng K, sinh năm 1976; nơi cư trú ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt

” Anh Đoàn Anh T, sinh năm 1993; nơi cư trú khu phố S, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

Ông Nguyễn Xuân P, sinh năm 1966; nơi cư trú khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 20/9/2018, Nguyễn Tuấn A đến Công ty TNHH-MTV-DV thuê xe L thuộc khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước gặp anh Lê Minh T thuê xe ô tô KIA RONDO biển số 93A-089.90 trong thời gian 02 tháng kể từ ngày 20/9/2018 để làm phương tiện đi lại. Ngày 30/10/2018, do không có tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân nên Tuấn A nảy sinh ý định đem cầm cố chiếc xe ô tô để chiếm đoạt. Khoảng 14 giờ cùng ngày, Tuấn A điều khiển xe ô tô biển số 93A-089.90 đến nhà anh Nguyễn Hồng K thỏa thuận cầm cố xe ô tô trên để lấy số tiền 114.000.000 đồng. Số tiền cầm cố xe ô tô biển số 93A-08990, Tuấn A trả nợ và tiêu xài cá nhân hết, sau khi cầm cố chiếc xe ô tô cho anh K, Tuấn A còn 02 lần vay mượn của anh K với số tiền 100.000.000 đồng. Khi đến thời hạn trả lại xe ô tô cho anh Lê Minh T nhưng Tuấn A không có tài sản để chuộc xe nên ngày 23/11/2018 anh T gửi đơn tố cáo Tuấn A đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công thành phố Đ.

Ngày 27/11/2018, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự có bản kết luận định giá tài sản số 154/KLĐG đối với 01 xe ô tô hiệu KIA RONDO biển số 93A-089.90, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường trị giá 480.000.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đ đã thu giữ: 01 xe ô tô hiệu KIA RONDO biển số 93A-08990; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC2619880 của xe ô tô biển số 93A-08990; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc số 0191515; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện số 0191514 và 01 giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp.

Ngày 04/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Lê Minh T: 01 xe ô tô hiệu KIA RONDO biển số 93A-08990; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC2619880 của xe ô tô biển số 93A-08990; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc số 0191515; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện số 0191514 và 01 giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp.

Tại bản cáo trạng số 61/CT-VKS-ĐX ngày 06/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn A về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A mức án từ 04 đến 05 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Lê Minh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hồng K yêu cầu bị cáo Nguyễn Tuấn A bồi thường số tiền 214.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo Tuấn A đồng ý bồi thường số tiền trên cho anh K nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Bị cáo Nguyễn Tuấn A tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng số 61/CT-VKS-ĐX ngày 06/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với kết luận điều tra, biên bản thu giữ tài sản; biên bản định giá tài sản, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân và trả nợ nên vào ngày 30/10/2018 sau khi thuê xe ô tô hiệu KIA RONDO, biển số 93A-089.90 của Công ty TNHH –MTV –DV L, thuộc khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước do anh Lê Minh T làm chủ làm phương tiện đi lại, Nguyễn Tuấn A đã đem cầm cố cho anh Nguyễn Hồng K lấy số tiền 114.000.000 đồng, sau đó Tuấn A còn 02 lần mượn của anh K với số tiền 100.000.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 154/KLĐG ngày 27/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Thành phố Đ kết luận: 01 xe ô tô hiệu KIA RONDO, biển số 93A-089.90, số máy: G4NAHH300414, số khung: 51M6HC107369, đăng ký lần đầu ngày 26/4/2017 (theo cà vẹt xe), đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường trị giá 480.000.000 đồng.

[3] Hành vi thuê tài sản của người khác thông qua hợp đồng rồi dùng chính tài sản thuê để cầm cố nhằm chiếm đoạt của bị cáo Nguyễn Tuấn A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 480.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3 Điều 175 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo là người đã thành niên, khi phạm tội bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi thuê tài sản của người khác sau đó dùng tài sản đó để cầm cố nhằm chiếm đoạt là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích tiêu xài cá nhân và trả nợ mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần được xem xét trong việc lượng hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[7] Đối với anh Nguyễn Hồng K là người nhận cầm cố xe ô tô hiệu KIA RON DO biển số 93A- 08990 cho bị cáo nhưng anh K không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không đặt vấn đề xử lý.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Lê Minh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hồng K yêu cầu bị cáo Nguyễn Tuấn A bồi thường số tiền cầm xe và 02 lần vay nợ với tổng số tiền 214.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo Tuấn A đồng ý bồi thường số tiền trên cho anh K. Xét sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với yêu cầu của anh Nguyễn Xuân P là cha ruột của bị cáo Nguyễn Tuấn A đề nghị được bồi thường thay cho bị cáo số tiền 114.000.000 đồng, tuy nhiên yêu cầu này của anh P không được anh K đồng ý. Do đó Hội đồng xét xử cần tuyên trả lại số tiền 25.000.000 đồng mà anh P đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Đ lại cho anh P.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/01/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Do người bị hại anh Lê Minh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Tuấn A và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hồng K. Bị cáo Nguyễn Tuấn A có trách nhiệm bồi thường cho anh Nguyễn Hồng K số tiền 214.000.000 đồng.

“Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015”.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Tuyên trả lại cho anh Nguyễn Xuân P số tiền 25.000.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Đ.

(Theo biên lai thu tiền số 000516 ngày 27/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Đ).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Án phí hình sự bị cáo Nguyễn Tuấn A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án phí dân sự bị cáo Nguyễn Tuấn A phải chịu 10.700.000 đồng (Mười triệu bảy trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

441
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;