Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 65/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 146/2019/TLST - HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị N, sinh năm 1993; cư trú tại: Ấp MT, xã TAK, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt)

- Bị đơn: Anh Lê Thanh V, sinh năm 1985; cư trú tại: Ấp MT, xã TAK, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Bùi Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Chị N và anh V chung sống năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TAK, hôn nhân tự nguyện. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, cuộc sống không hòa hợp dẫn đến cự cãi và đã ly thân đến nay khoảng hơn một năm. Chị N xác định không còn tình cảm với anh V nên yêu cầu được ly hôn với anh V.

Về con chung: Chị và anh V có 01 người con tên Lê Thanh D, sinh ngày 24/3/2014, do anh V đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị N yêu cầu nuôi cháu D, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Chị xác định khi bỏ nhà đi, chị không có yêu cầu bên chồng cho chị dẫn cháu D cùng đi. Về điều kiện nuôi con: Chị hiện nay làm cho Công ty hải sản Đầm Dơi, làm việc từ thứ hai đến chủ nhật, mức thu nhập một tháng khoảng từ 4.500.000đ đến 5.000.000đ, ngoài ra không có tài sản hay thu nhập nào khác. Từ khi đi đến nay, chị vẫn thường xuyên về thăm cháu một tháng khoảng một đến hai lần, chị thấy cháu cao và ốm nhưng sức khỏe vẫn bình thường. Khi đến thăm cháu, gia đình bên chồng vẫn cho chị thăm cháu nhưng không cho đưa cháu về thăm ông bà ngoại. Chị xác định anh V có đủ điều kiện để nuôi con, nhà bên chồng gần trường học và trạm Y tế xã Tạ An Khương.

Về tài sản và nợ: Chị N xác định không có.

Anh Lê Thanh V trình bày:

Về hôn nhân: Anh thống nhất với lời trình bày của chị N về thời gian chung sống, thời gian ly thân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TAK, hôn nhân tự nguyện và nguyên nhân mâu thuẫn. Anh V xác định không còn tình cảm với chị N nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị N.

Về con chung: Anh chị có một người con chung theo đúng lời trình bày của chị N. Anh là người trực tiếp nuôi cháu từ khi ly thân đến nay nên anh yêu cầu được nuôi cháu D, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Về điều kiện nuôi con: Anh là con trai út trong gia đình hiện tại đang sống chung với cha mẹ. Cha mẹ anh có khoảng 20 công vuông và anh đang trực tiếp làm trên phần đất này với thu nhập một tháng khoảng 8.000.000đ. Từ khi ly thân đến nay, cháu D sống chung với anh và vẫn phát triển khỏe mạnh, chị N có về thăm con nhưng không thường xuyên và khi chị về thăm anh vẫn cho gặp con. Anh xác định chị N không đủ điều kiện nuôi con vì hiện tại chị đang làm cho công ty, cha mẹ vợ bệnh nên không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, nhà cha mẹ vợ cũng ở gần trường học và Trạm y tế xã Tạ An Khương như bên anh.

Về tài sản và nợ: Anh V xác định không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hôn nhân: Chị N và anh V chung sống năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TAK, hôn nhân tự nguyện theo đúng quy định nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Xét nguyên nhân mâu thuẫn: Anh chị đều xác định nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh chị bất đồng quan điểm, cuộc sống không hòa hợp dẫn đến cự cãi và đã ly thân đến nay trên một năm, anh chị xác định không còn tình cảm với nhau nên thống nhất ly hôn . Xét mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Dó đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình cho chị N được ly hôn anh V.

[2] Về con chung: Chị N và anh V đều có nguyện vọng nuôi cháu Lê Thanh D. Xét thấy, từ khi anh chị ly thân đến nay, anh V là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu D, cháu vẫn phát triển đầy đủ về mặt thể chất lẫn tinh thần và cuộc sống của cháu đã ổn định nếu giao cho chị N nuôi dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu. Mặt khác, anh V đang làm vuông cùng gia đình còn chị N làm cho Công ty hải sản Đầm Dơi với thời gian làm việc từ thứ hai đến chủ nhật. Theo đó, anh V có đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng cháu D hơn chị N. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình giao cháu D cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Anh V không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xet, giải quyết là phù hợp.

[3] Về tài sản và nợ: Anh chị xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xet, giải quyết là phù hợp.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị N, cho chị Bùi Thị N được ly hôn anh Lê Thanh V.

2. Về con chung: Không chấp nhận yêu cầu nuôi dưỡng cháu Lê Thanh D của chị Bùi Thị N. Giao cháu Lê Thanh D, sinh ngày 24/3/2014 cho anh Lê Thanh V tiếp tục nuôi dưỡng.

Chị Bùi Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Bùi Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0009214 ngày 21 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị N đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị Bùi Thị N và anh Lê Thanh V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:65/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;