TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 123/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 09 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 174/2018/TLST-HNGĐ ngày 23/5/2018, về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình, ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 356/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/8/2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 (có mặt)
Cư trú: Số 283/5, tổ 4, ấp Mỹ Thạnh, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Anh Đoàn Văn C, sinh năm 1989 (vắng mặt)
Cư trú: Ấp Trung Phú I, xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Tôi với anh Đoàn Văn C chung sống với nhau từ năm 2013, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa Tận, hạnh phúc và sinh được 02 con chung tên Đoàn Thị Lan A, sinh ngày 30/12/2010 và Đoàn Văn Tuấn A, sinh ngày 23/10/2014. Đến cuối năm 2017 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu Tẫn, nguyên nhân do anh C thường xuyên nhậu nhẹt, không quan tâm chăm sóc vợ con, mỗi lần nhậu về đánh vợ con, tôi nhiều lần góp ý nhưng anh C không chịu thay đổi, vợ chồng đã ly thân từ cuối năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên tôi yêu cầu được ly hôn với anh Đoàn Văn C; về con chung sau khi ly hôn tôi yêu cầu được nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh C cấp dưỡng; về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn anh Đoàn Văn C: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ, nhưng anh C đều vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị T nên Tòa án lập biên bản không hòa giải được và tiến hành đưa vụ án ra xét xử.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án, các đương sự cũng chấp hành đúng với quy định của pháp luật, riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Về trình tự thụ lý, biên bản tống đạt, việc tuân theo pháp luật đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án, qua xem xét toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn; bị đơn anh Đoàn Văn C cư trú tại ấp Trung Phú 1, xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Theo quy định tại Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án Tộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn. Tại phiên tòa, anh Đoàn Văn C vắng mặt, Tòa án đã triệu tập hợp lệ hai lần. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh C.
[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị T chung sống với anh Đoàn Văn C có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang là hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Sau khi kết hôn, chị T và anh C có thời gian chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu Tẩn, nguyên nhân anh C thường xuyên đi nhậu, không quan tâm chăm sóc vợ con, mỗi lần đi nhậu về đánh vợ con, làm cho không khí gia đình luôn căng thẳng, vợ chồng đã ly thân hơn một năm nay, trong thời gian ly thân mỗi người sống mỗi nơi, không còn liên lạc nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh C đến tòa nhằm mục đích hòa giải hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng anh C vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị T, nên Tòa án không thể hòa giải đoàn tụ được. Về phía chị T kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C vì tình cảm vợ chồng không còn, nếu tiếp tục duy trì thì hôn nhân sẽ không hạnh phúc. Từ những nhận định phân Cch nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T với anh C mâu Tẩn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Đoàn Văn C.
[3] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống, chị T với anh C có 02 con chung tên Đoàn Thị Lan A, sinh ngày 30/12/2010 và Đoàn Văn Tuấn A, sinh ngày 23/10/2014, hiện nay cháu Lan Anh và cháu Tuấn Anh chung sống với chị T, được chị T chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định. Để tránh xáo trộn về mặt tâm lý, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao cháu cháu Lan Anh và cháu Tuấn Anh cho chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị T phải tạo điều kiện cho anh C đến thăm nom, chăm sóc con, khi cần thiết có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.
[4] Về quan hệ tài sản chung: Theo chị T, quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy Hội đồng xét xử không đề cập xem xét
[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị T xin ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Đoàn Văn C.
- Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị T được nuôi hai con chung tên Đoàn Thị Lan A, sinh ngày 30/12/2010 và Đoàn Văn Tuấn A, sinh ngày 23/10/2014; anh C không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T phải tạo điều kiện cho anh C được quyền đến thăm nom, chăm sóc con, khi cần thiết có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.
- Về quan hệ tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết
- Về nợ chung: Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị T và anh C trong thời kỳ hôn nhân thì chị Nguyễn Thị T và anh Đoàn Văn C phải liên đới trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
- Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai T số 0001169 ngày 23/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang (Chị T đã nộp xong).
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã nơi đương sự cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 123/2018/HNGĐ-ST ngày 09/10/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 123/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về