Bản án 64/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân huyện Long Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2021/QĐXXST-HS ngày 22/3/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị Trúc M (tên gọi khác: B), sinh năm 1981 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:, Phường A, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi sinh sống: Ấp 3, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật Giáo ; quốc tịch: Việt Nam; c on ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1960; Bị cáo chưa có chồng con;

Tiền án: Ngày 18/7/2012 bị Toà án nhân dân Quận 11 xử phạt 06 tháng tù và phạt bổ sung 10.000.000 đồng về tội "Đánh bạc", bị cáo chưa chấp hành đóng tiền phạt bổ sung.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 14/11/2003 bị Toà án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và phạt bổ sung 5.000.000 đồng về tội "Đánh bạc".

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/10/2020, chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. (Bị cáo có mặt)

2. Trần Tấn L, sinh năm 1998 tại Cà Mau; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau; Nơi sinh sống: Ấp 5, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1974; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/10/2020, chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. (Bị cáo có mặt).

* Những người khác được Toà án triệu tập đến tham gia phiên toà:

- Ông Phạm Minh T – Chức vụ: Phó trưởng Công an xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

- Ông Nguyễn Hoàng Hải – Chức vụ: Công an viên Công an xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 30/10/2020, lực lượng Công an xã An Phước tuần tra trên tuyến đường liên xã ấp 3, xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai phát hiện Trần Tuấn L ngồi trên xe mô tô biển số 84LA-03979 có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma tuý nên tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện bên trong túi quần Jear phía trước, bên trái có 01 gói nylong kích thước 3,5x3,5cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, không rõ hình nghi là ma tuý. Bị cáo L khai đó là ma tuý do bị cáo Nguyễn Thị Trúc M đưa tiền để bị cáo L mua về sử dụng chung. Công an xã An Phước tiến hành thu giữ tang vật và lập biên bản phạm tội quả tang chuyển Công an huyện Long Thành giải quyết theo thẩm quyền. Sau đó Công an huyện Long Thành tiến hành bắt khẩn cấp đối với bị cáo Nguyễn Thị Trúc M để điều tra xử lý.

Quá trình điều tra xác định được như sau: Trần Tấn L và Nguyễn Thị Trúc M là bạn bè với nhau. Vào lúc 22 giờ 00 phút ngày 30/10/2020, bị cáo M có nhu cầu sử dụng ma tuý nên M gọi điện thoại cho L, nhờ L mua 500.000 đồng ma tuý và hứa cho L cùng sử dụng. M hẹn L đến quán Cà phê 5S gần Công viên 3A để đưa tiền. L đồng ý rồi điều khiển xe mô tô biển số 84LA-039.79 đến điểm hẹn gặp M, M đưa cho L 500.000 đồng (02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng), sau đó L điều khiển xe đến khu vực nghĩa địa khu Kim Sơn, thị trấn Long Thành gặp T (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 gói ma tuý kích thước 3,5x3,5cm với giá 500.000 đồng. L cất giấu gói ma tuý vừa mua trong túi quần Jean phía trước bên trái rồi điều khiển xe đến ngã ba quán Cà phê 5S thuộc ấp 3, xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai đợi bị cáo M đến thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nylong kích thước 3,5x3,5cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng.

- 01 xe mô tô biển số 84LA-039.79.

- 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Vivo, màu xám gắn thẻ sim 0345.748.069 của bị cáo Mai và 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Iphone, màu bạc gắn thẻ sim 0842.566.575 của bị cáo Lộc.

- 01 xe mô tô thu giữ của bị cáo Mai có biển số 60C1-90074, nhãn hiệu Honda Air Blade, màu bạc-đen.

Tại Bản kết luận giám định số 2566/PC09-GĐMT ngày 05/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

+ Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma tuý loại Methamphetamine có khối lượng 0,5507 gam.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,5256gam được niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu số 2566/KLGĐ-PC09.

Quá trình tiến hành tố tụng các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Tại bản Cáo trạng số: 45/CT-VKSLT ngày 04/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Trần Tấn L và Nguyễn Thị Trúc M để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuýtheo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Trần Tấn L và Nguyễn Thị Trúc M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuýtheo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Đối với bị cáo L áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017), đối với bị cáo M đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ bị cáo là lao động chính trong gia đình theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Trần Tấn L từ 14 đến 16 tháng tù.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Trúc M từ 20 đến 24 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng:

+ 01 gói mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,5256gam được niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu số 2566/KLGĐ-PC09 đề nghị tịch thu tiêu huỷ;

+ 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Vivo, màu xám gắn thẻ sim 0345.748.069 của bị cáo M và 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Iphone, màu bạc gắn thẻ sim 0842.566.575 của bị cáo L, các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;

+ Đối với 01 xe mô tô biển số 84LA-039.79 bị cáo Lộc sử dụng làm phương tiện phạm tội, hiện chưa xác minh được chủ sở hữu, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

+ Đối với 01 xe mô tô thu giữ của bị cáo M có biển số 60C1-90074, nhãn hiệu Honda Air Blade, màu bạc-đen đã trả lại cho chủ sở hữu nên đề nghị HĐXX không xem xét.

- Buộc các bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông tên T có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý cho bị cáo L nhưng không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh điều tra xử lý sau.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, bị cáo L không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Đối với bị cáo M ban đầu thừa nhận hành vi phạm tội là đưa tiền cho L mục đích để L đi mua ma tuý về sử dụng chung. Sau đó bị cáo M thay đổi lời khai không thừa nhận đưa tiền cho bị cáo L mục đích đi mua ma tuý mà mục đích đưa số tiền này là cho bị cáo L mượn.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng:

- Bị cáo L: Bị cáo không nói lời nói sau cùng.

- Bị cáo M: Bị cáo xin lỗi gia đình bị cáo. Số tiền 500.000 đồng bị cáo đưa cho bị cáo L không nhằm mục đích mua ma tuý về sử dụng chung mà chỉ chỉ nhằm mục đích cho bị cáo L vay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo L đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Bị cáo M ban đầu thừa nhận hành vi phạm tội là đưa tiền cho bị cáo L nhằm mục đích mua ma tuý để về sử dụng chung, sau đó bị cáo M thay đổi lời khai không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo thay đổi lời khai là đưa tiền cho bị cáo L mục đích không phải đi mua ma tuý mà mục đích đưa số tiền này là cho bị cáo L mượn. Bị cáo M thay đổi lời khai không thừa nhận hành vi phạm tội vì cho rằng khi bị cáo làm việc tại Công an xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai vào ngày 31/10/2020 thì bị Công an xã An Phước còng tay vào ghế sau đó bắt bị cáo ghi tự khai bằng tay còn lại, bị cáo bị 03 người (mặc đồ thường, bị cáo không biết tên tuổi của những người này) đánh đấm vào mặt của bị cáo nhiều lần để buộc bị cáo khai là đưa số tiền 500.000 đồng cho L đi mua ma tuý để về sử dụng chung. Tại biên bản ghi lời khai (có đóng bút lục số 100) thể hiện người lấy lời khai của bị cáo M là ông Phạm Minh T là Phó Trưởng Công an xã An Phước và ông Nguyễn Hoàng H là Công an viên của Công an xã An Phước. Để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, HĐXX đã triệu tập ông T và ông H đến tham gia phiên toà. Tại phiên toà bị cáo M thừa nhận người đánh bị cáo để ép bị cáo khai không phải là ông T và ông H. Theo trình bày của ông T và ông H, thì tại Công an xã An Phước không có ai đánh bị cáo M để ép bị cáo khai như bị cáo đã khai nêu trên.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo cũng thừa nhận, tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành thì khi bị cáo ghi bản tự khai và khi cơ quan cảnh sát điều tra huyện Long Thành ghi lời khai và ghi biên bản hỏi cung bị can thì bị cáo không bị ép cung, không bị dùng nhục hình, việc khai nhận của bị cáo tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành là đúng với diễn biến sự việc đã xẩy ra.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 31/10/2020 và biên bản hỏi cung bị can ngày 09/11/2020 và bản tự khai của bị cáo ngày 09/11/2020 tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai này của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo L cùng các vật chứng, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở để xác định:

Các bị cáo Trần Tấn L và Nguyễn Thị Trúc M là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Vào lúc 22 giờ 00 phút ngày 30/10/2020, bị cáo M có nhu cầu sử dụng ma tuý nên M gọi điện thoại cho L, nhờ L mua 500.000 đồng ma tuý và hứa cho L cùng sử dụng. M hẹn L đến quán Cà phê 5S gần Công viên 3A và đưa cho bị cáo L 500.000 đồng để bị cáo L đi mua ma tuý về sử dụng chung.

Bị cáo L đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 84LA-039.79 đi mua 01 túi nylong ma tuý. Sau khi mua xong, L cất giấu gói ma tuý trong túi quần Jean phía trước, bên trái, rồi điều khiển xe mô tô đến gần ngã ba quán Cà phê 5S thuộc ấp 3, xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai đợi M thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng vật chứng gồm 01 túi Nylong có kích thước 3,5x3,5cm có khối lượng 0,5507 gam loại Methamphetamine.

[3] Do vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017), như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Xét các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, các bị cáo không bàn bạc, cấu kết với nhau chặt chẽ, bị cáo M là người rủ rê và đưa tiền cho bị cáo L đi mua ma tuý nên xác định là đầu vụ. Bị cáo L là người trực tiếp đi mua ma tuý nên xác định là người thực hành.

Nên cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo khi lượng hình, nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo thành công dân tốt và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo M có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo M là lao động chính trong gia đình (Đã được địa phương nơi cư trú xác nhận) thuộc trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ 01 gói mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,5256gam được niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu số 2566/KLGĐ-PC09, HĐXX xét thấy cần tuyên tịch thu tiêu huỷ theo quy định.

+ 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Vivo, màu xám gắn thẻ sim 0345.748.069 của bị cáo M và 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Iphone, màu bạc gắn thẻ sim 0842.566.575 của bị cáo L, các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, xét thấy cần tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;

+ Đối với 01 xe mô tô biển số 84LA-039.79 bị cáo L sử dụng làm phương tiện phạm tội, hiện chưa xác minh được chủ sở hữu, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

+ Đối với 01 xe mô tô có biển số 60C1-90074, nhãn hiệu Honda Air Blade, màu bạc-đen đã được trả lại cho chủ sở hữu nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết .

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 (đối với bị cáo Lộc); khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 (Đối với bị cáo Mai); Điều 17, 38, 47, 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Điều 106, 260, 327, 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Tuyên bố các bị cáo: Trần Tấn L và Nguyễn Thị Trúc M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Trần Tấn L 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Trúc M 01 (Một) năm 10 (Mười) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 gói mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,5256 gam được niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu số 2566/KLGĐ-PC09;

+ Sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Vivo, màu xám gắn thẻ sim 0345.748.069 của bị cáo M và 01 điện thoại di động mặt sau có chữ Iphone, màu bạc gắn thẻ sim 0842.566.575 của bị cáo L.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai).

3. Về án phí: Buộc các bị cáo L, M mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;