TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 633/2023/HS-PT NGÀY 30/08/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 30 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 249/2023/TLPT-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1; Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận.
-Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Hữu Ngh1, sinh năm 1995, tại thành phố Cần Thơ; Nơi tạm trú: số 382, tổ 20, khu vực 4, phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn S và bà Trần L; vợ (sống chung không đăng ký kết hôn với chị Võ Thị Be1 là bị hại trong vụ án), có 02 người con;
Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;
Bị bắt tạm giữ ngày 10/11/2022, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Thuận; có mặt - Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H, Luật sư Công ty luật M, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Thuận; có mặt
- Bị hại: Chị Võ Thị Be1 , sinh năm 1999 (đã chết);
Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Phạm Thị Thuý Li1, sinh năm 1975;
Cư trú tại: Khu phố 1, thị trấn Liên Hương, Huyện Tuy Phang, tỉnh Bình Thuận, Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu Ngh1 (sinh năm 1995, trú phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ) và Võ Thị Be1 (sinh năm 1999, trú khu phố 1, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014 (không đăng ký kết hôn), có 02 con chung là Võ Hữu Th1 (sinh ngày 23/7/2015) và Võ Hữu Ph1 (sinh 16/3/2017). Nguyễn Hữu Ngh1 và Võ Thị Be1 sinh sống ở nhiều nơi, đến tháng 8 năm 2022 thì về sinh sống tại nhà mẹ ruột của Võ Thị Be1 là bà Phạm Thị Thúy Li1, sinh năm 1975, địa chỉ: khu phố 1, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Trước ngày xảy ra vụ án khoảng 15 ngày, N và chị Be1 phát sinh mâu thuẫn do ghen tuông và N có đánh chị Bé. Do bị chị Be1 đuổi ra khỏi nhà không cho ở chung nên N sang nhà bà Phạm Thị N (sinh năm 1962) là dì hai của Be1 kế bên để ở. Đến trưa ngày 09/11/2022, Nguyễn Hữu Ngh1 nảy sinh ý định giết chị Võ Thị Be1 . Thực hiện ý định trên, Nguyễn Hữu Ngh1 đến chợ Liên Hương mua 01 con dao thái lan, cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn về cất giấu trong túi quần phơi bên hông nhà. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi Võ Thị Be1 và 02 con đi uống nước trái cây về đang trong phòng ngủ, thì Nguyễn Hữu Ngh1 cầm 01 con dao trên bằng tay phải xông vào phòng ngủ, áp sát quỳ gối hướng từ dưới chân của Võ Thị Be1 khi Be1 đang nằm ngửa trên nệm nghe điện thoại, N đâm mạnh 01 nhát vào vùng ngực trái của Bé. Bị đâm bất ngờ, Be1 la lên: “Ngoại ơi, dì Hai ơi”, thì bị N ngồi lên bụng dùng tay trái bịt miệng, tay phải cầm dao đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng mặt, chị Be1 nằm bên dưới dùng hai tay chống đỡ, giãy dụa quơ tay chân làm gãy lưỡi dao. N vứt bỏ con dao bị gãy tại hiện trường rồi bỏ trốn, Võ Thị Be1 tử vong ngay sau đó.
Sau khi dùng dao đâm chị Võ Thị Be1 , Nguyễn Hữu Ngh1 ra Quốc lộ 1A đón xe khách về thành phố Cần Thơ. Đến 14 giờ 25 phút ngày 10/11/2022, Nguyễn Hữu Ngh1 đến Công an phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 04/2023/TT ngày 27/12/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận, kết luận nguyên nhân chết của Võ Thị Be1 như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương sau vành tai phải, vành tai trái do vật sắc gây ra theo chiều hướng từ sau ra trước với lực tác động trung bình.
- Vết sây sát da mặt trong vành tai trái, vùng gò má trái, vùng mặt bên trái (cách khoé miệng bên trái 2,5cm) do vật sắc gây ra với lực tác động nhẹ.
- Vết thương vùng mặt bên trái do vật sắc gây ra theo chiều hướng từ trái sang phải với lực tác động trung bình.
- Vết thương mặt mu đốt gần ngón II bàn tay phải do vật sắc nhọn tạo ra với lực tác động trung bình, chiều hướng tác động phụ thuộc vào tư thế tay trái của nạn nhân với vật gây thương.
- Vết thương mặt lòng bàn tay trái xuyên thấu ra mặt mu ban tay trái do vật nhọn gây ra với lực tác động mạnh, chiều hướng tác động phụ thuộc vào tư thế tay trái của nạn nhân với vật gây thương.
- Vết thương vùng ngực trái cạnh đầu trên mũi ức, thấu ngực do vật sắc nhọn gây ra theo chiều hướng từ trước ra sau, từ phải sang trái với lực tác động rất mạnh. Vết thương gây vong - Vết thương vùng ngực cạnh đầu dưới mũi ức do vật sắc nhọn gây ra theo chiều hướng từ trước ra sau, từ phải sang trái với lực tác động trung bình.
- Vết thương 1/3 trên mặt trước ngoài đùi trái do vật sắc gây ra với lực tác động trung bình, chiều hướng tác động phụ thuộc vào tư thế cơ năng của nạn nhân với vật gây thương.
2. Nguyên nhân chết:
Vết thương vùng ngực trái thấu ngực, thủng mặt trước và mặt sau cung động mạch chủ, rách màng phổi thùy trên phổi trái làm mất máu cấp gây suy tuần hoàn, suy hô hấp cấp dẫn đến tử vung.
Kết luận giám định số: 6361/KL-KTHS ngày 05/12/2022 của Phân viện KHHS tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:
- Không phát hiện thấy máu hay ADN của Nguyễn Hữu Ngh1 trên mẫu móng tay thu của tử thi Võ Thị Be1 .
- Không phát hiện thấy dấu vết máu trên cán dao (tại vị trí số 3).
- Chất màu nâu đỏ thu trên lưỡi dao tại vị trí số 3; tại hiện trường vị trí số 1, 2 đều là máu người. Phân tích ADN từ các dấu vết máu này được cùng một kiểu gen nữ giới hoàn chỉnh, trùng với kiểu gen của tử thi Võ Thị Be1 . Không phát hiện thấy máu của Nguyễn Hữu Ngh1 trong các mẫu.
Vật chứng thu giữ:
01 con dao bị gãy, phần cán nhựa màu vàng dài 9,8cm, phần lưỡi bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn bị cong vênh.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã quyết định:
Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 phạm tội: “Giết người”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/11/2022.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.
Ngày 14/3/2023, bị cáo Ngh1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 23/3/2023, đại diện hợp pháp cho bị hại có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm quy kết, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo vì mức án như Toà án cấp sơ thẩm tuyên là nặng.
Đại diện hợp pháp cho bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì mức án tù chung thân đối với bị cáo là quá nặng, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, phạm tội do bồng bột, xin cho bị cáo có cơ hội sớm trở về nuôi con.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ vào chứng cứ có tại hồ sơ và được thẩm vấn công khai tại phiên toà thì có đủ cơ sở để kết luận chỉ vì ghen tuông mà bị cáo nảy sinh ý định giết chị Bé, bị cáo dùng dao đâm nhiều nhát vào vùng ngực, mặt làm chị Be1 tử vong. Hành vi của bị cáo mang tính chất côn đồ, coi thường pháp luật, coi thường mạng sống của người khác, đã cấu thành tội “giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự như án sơ thẩm tuyên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo, xem xét nhân thân của bị cáo, đánh giá tính chất hành vi, hậu quả của tội phạm và xử phạt bị cáo Ngh1 mức án tù chung thân là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề N Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo.
Luật sư bào chưa cho các bị cáo tranh luận: Thống nhất về tội danh như Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo cũng như nguyên nhân phạm tội; bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt cha mẹ ly hôn từ khi bị cáo còn nhỏ, từ đó thiếu vắng tình cảm, sự giáo dục của gia đình, quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chỉ do ghen tuông, bồng bột mà bị cáo phạm tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị hại có yêu cầu số tiền 5.000.000 đồng tiền nhang khói, mặc dù gia đình khó khăn nhưng bị cáo đã tác động gia đình lo được số tiền 3.000.000 đồng cho gia đình bị hại. Đề N Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đại diện bị hại, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo không tranh luận.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin xem xét giảm án cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo là hợp lệ, được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3] Nguyễn Hữu N và chị Võ Thị Be1 chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014 (không đăng ký kết hôn). Do ghen tuông vô cớ mà bị cáo nảy sinh ý định giết chết chị Be1 nên đã mua 01 con dao về cất giấu, đến khoảng 20 giờ ngày 09/11/2022, Nguyễn Hữu Ngh1 xông vào phòng ngủ của chị Be1 và dùng dao chuẩn bị sẵn đâm nhiều nhát vào người chị Bé, hậu quả làm chị Be1 tử vong.
[4] Quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm các bị cáo khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như nêu trên. Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng của người bị hại, chỉ vì ghen tuông vô cớ mà bị cáo dùng dao đã chuẩn bị sẵn từ trước đâm chết bị hại, hành vi của bị cáo thể hiện sự côn đồ, hung hãn, coi thường mạng sống của người khác, coi thường pháp luật. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, thấy rằng: Khi Quyết định hình phạt Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Xem xét về nhân thân của bị cáo, đánh giá tình chất hành vi, hậu quả của tội phạm, từ đó xử phạt bị cáo mức án tù chung thân là tương xứng, không nặng. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo, đại diện bị hại xin giảm hình phạt nhưng không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có cơ sở giảm hình phạt cho bị cáo, vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo.
[6] Quan điểm của đại diện Việm kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề N bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.
[7] Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo đề N giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[8] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[9] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng N tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 và đại diện hợp pháp của bị hại.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận.
Tuyên xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 phạm tội: “Giết người”.
Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/11/2022.
Về án phí: bị cáo Nguyễn Hữu Ngh1 phải chịu 200.000 đông tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng N tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 633/2023/HS-PT về tội giết người
Số hiệu: | 633/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về