TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 63/2021/HS-PT NGÀY 12/07/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 12 tháng 7 năm 2021, tại Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:48/2021/TLPT-HS ngày 24 tháng 5 năm 2021,do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
* Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T (tên gọi khác: Không), Sinh năm 1998; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm TT 1, xã TQ, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quang H, sinh năm 1960 và bà Hoàng Thị Y, sinh năm 1966; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, Tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/01/2021 đến ngày 05/02/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. (Có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/01/2021, tổ công tác Công an huyện Phú Bình phối hợp cùng với Công an xã Điềm Thụy, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Điềm Thụy, xã Điềm Thụy, huyện Phú Bình, phát hiện Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn liên quan đến hàng cấm. Tổ công tác yêu cầu dừng xe kiểm tra phát hiện ở giá đèo hàng phần giữa xe mô tô có 01 bao tải dứa màu xanh, bên trong chứa 05 khối hình hộp bên ngoài được dán bằng giấy nhiều màu sắc có in chữ nước ngoài, theo T khai nhận đây là pháo nổ của T. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng (ký hiệu A), ngoài ra tạm giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đỏ; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc BKS 20B1-82642 cũ qua sử dụng, sau đó đưa T cùng vật chứng về Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Phú Bình điều tra làm rõ.
Hồi 19 giờ 25 phút ngày 27/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình tiến hành cân xác định khối lượng 05 khối hình hộp được niêm phong (ký hiệu A) thu giữ của Nguyễn Văn T có khối lượng là 07kg (bẩy kilogam). Lấy toàn bộ 07 kg niêm phong vào bì thư (ký hiệu A1) gửi phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên giám định.
Tại Bản kết luận giám định số: 401/KL-KTHS ngày 04/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: 05 vật hình hộp có đặc điểm tương đồng nhau, kích thước (14,5x14,5,15)cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong chứa 36 ống hình trụ, kích thước dài 15cm, đường kính ống 2,4cm trong mẫu A1 gửi đến giám định là pháo nổ.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Phú Bình, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 27/01/2021 T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 20B1-826.42 đi từ nhà sang khu vực xã Điềm Thụy, huyện Phú Bình để mua pháo nổ với mục đích về sử dụng, trước khi đi khoảng 01 giờ T có liên hệ qua tài khoản Facebook (không nhớ rõ tên) để thoả thuận mua 05 hộp pháo nổ loại pháo hoa 36 quả với giá 2.750.000 đồng. Khi đi đến khu vực ngân hàng Agribank Điềm Thụy, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, T gặp một người phụ nữ lạ mặt không quen biết, không rõ tên tuổi địa chỉ và được dẫn tới một khu nghĩa trang, T chỉ biết thuộc xã Điềm Thụy để giao dịch mua bán pháo. Tại đây, T mua được của người này 05 hộp pháo hoa nổ để trong bao tải dứa màu xanh như đã thoả thuận. Sau khi mua được pháo, T đặt bao tải pháo ở giữa xe và chở về nhà, khi đi về đến đoạn đường qua xóm Điềm Thụy, xã Điềm Thụy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HSST ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho UBND xã Tân Quang, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo (bị cáo Nguyễn Văn T) cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đỏ; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển kiểm soát 20B1 – 826.42.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng là pháo nổ, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Ngày 06/5/2021, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị xem xét lại tội danh “Tàng trữ hàng cấm” đối với bị cáo, giảm mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt tương xứng với tội danh và hành vi của bị cáo gây ra, đề nghị xem xét trả lại tài sản là chiếc điện thoại và xe mô tô cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã nêu.
Quan điểm của đai diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên:
Đối với kháng cáo về tội danh: Bị cáo có hành vi vận chuyển 7kg pháo nổ từ khu vực xã ĐT, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên về nhà bị cáo tại xã TQ, thành phố Sông Công, mục đích để đốt trong dịp tết, không phải với mục đích mua bán hoặc vận chuyển thuê. Đối với hành vi tàng trữ thì có thể tàng trữ ở nhà hoặc trên xe mô tô hay bất cứ ở đâu, vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội: “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, vì vậy không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về tội danh.
Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất vụ án, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng và xử phạt bị cáo mức án 18 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Kháng cáo của bị cáo đề nghị trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave. Xét thấy, chiếc điện thoại di động bị cáo sử dụng để liên lạc mua pháo, chiếc xe mô tô, đăng ký mang tên bị cáo, bị cáo sử dụng làm phương tiện vận chuyển pháo, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự thì: Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội phải tịch thu sung quỹ Nhà nước, mặc dù bị cáo cho rằng chiếc xe mô tô, đăng ký mang tên bị cáo là do bố mẹ bị cáo mua cho bị cáo để làm phương tiện phục vụ việc học tập và đi lại của cả gia đình, bản thân bị cáo không có việc làm, chưa có thu nhập, việc bị cáo sử dụng để vận chuyển pháo gia đình không ai biết, tuy nhiên xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T.
Bị cáo T không tranh luận với kết luận của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị trả lại xe mô tô và điện thoại cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T gửi trong trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: Quá trình điều tra, truy tô và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/01/2021, tại khu vực xóm ĐT, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Văn T đang có hành vi vận chuyển 07kg pháo nổ từ khu vực xóm ĐT, xã ĐT, huyện Phú Bình để mang về nhà bị cáo tại xóm TT 1, xã TT, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên, với mục đích sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Phú Bình phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.
Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự.
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
- Về tội danh: Bị cáo có hành vi mua 07kg pháo tại khu vực xóm ĐT, xã ĐT, huyện Phú Bình để mang về nhà tại xóm TT 1, xã TT, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, với mục đích để đốt trong dịp tết Nguyên đán, trên đường vận chuyển số pháo trên về nhà thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm”. Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự là chưa chính xác, vì vậy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm về tội danh đối với bị cáo.
- Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: Khi quyết đinh hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đa căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét áp dụng đầy đu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy đinh, xử phạt bị cáo mức án 18 tháng tù, cho hưởng án treo là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
- Đối với yêu cầu trả lại chiếc điện thoại và xe mô tô: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô và điện thoại Cơ quan điều tra tạm giữ của bị cáo là tài sản hợp pháp của bị cáo. Bị cáo đã sử dụng những tài sản này làm công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với những tài sản này là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyên Văn T , giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt và xử lý vật chứng đối với bị cáo.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HSST ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên về tội danh.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyên Văn T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyên Văn T 18 (mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho UBND xã TQ, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo (bị cáo Nguyễn Văn T) cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo, quy định tại Điều 93 Luật thi hành án hình sự.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đỏ có số Imei 73697 (05 số cuối) được niêm phong trong phong bì ký hiệu E; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc BKS 20B1-82642, xe co 01 gương chiêu hâu bên trai , sô khung: RLHHC125GFY220620, sô may HC12E7220671, dung tich xi lanh 97, đăng ky lân đầu ngày 23/7/2016 do Công an tinh Thai Nguyên, xe cũ đã qua sử dụng, khi giao nhân xe không kiêm tra cac bô phân bên trong xe va săm lôp bên ngoai.
3. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Văn T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 63/2021/HS-PT ngày 12/07/2021 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 63/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về