Bản án 63/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 63/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 260/2020/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2020 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Mai Thị Thu T, sinh năm 1996; thường trú: Phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Anh Phạm Vũ Thanh D, sinh năm 1997; thường trú: Khu phố A, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

(Chị Mai Thị Thu T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, anh Phạm Vũ Thanh D vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/3/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Mai Thị Thu T trình bày:

Chị Mai Thị Thu T và anh Phạm Vũ Thanh D tự nguyện tìm hiểu nhau rồi tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 54, ngày 20/7/2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Chị T làm nhân viên tư vấn chứng khoán, thu nhập khoảng 9.000.000 đồng/tháng, anh D buôn bán tự do, thu nhập cũng khoảng 9.000.000 đồng/tháng.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, tuy nhiên đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do anh D ham chơi, thường xuyên tụ tập bạn bè, vắng nhà qua đêm, không chăm lo cho vợ con, giữa vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị T và anh D đã ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Chị T yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về con chung: Chị Mai Thị Thu T và anh Phạm Vũ Thanh D có một con chung là Phạm Mai Duy A, sinh ngày 05/12/2018, hiện con đang ở với chị T. Sau ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con với số tiền 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Phạm Vũ Thanh D: Quá trình tố tụng, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn để làm việc, viết bản tự khai; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Đồng thời, bị đơn cũng không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Ngày 08/5/2020, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Mai Thị Thu T và anh Phạm Vũ Thanh D tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường B và được cung cấp như sau: Hội Liên hiệp phụ nữ phường B không nhận được đơn đề nghị hòa giải quan hệ hôn nhân giữa chị Mai Thị Thu T và anh Phạm Vũ Thanh D. Đồng thời Hội Liên hiệp phụ nữ phường B cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị, do đó không biết rõ giữa hai anh chị có mâu thuẫn như thế nào, vấn đề con chung, công việc và thu nhập Hội Liên hiệp phụ nữ phường Bình An cũng không biết nên không cung cấp được thông tin cho Tòa án.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn chị Mai Thị Thu T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn anh Phạm Vũ Thanh D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị Thu T và anh Phạm Vũ Thanh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 54, ngày 20/7/2018, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Về nguyên nhân mâu thuẫn: Nguyên đơn chị Mai Thị Thu T cho rằng do anh D ham chơi, không quan tâm gia đình nên dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, chị T và anh D đã sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Mâu thuẫn trầm trọng nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh D.

Xét thấy, Tòa án đã triệu tập anh Phạm Vũ Thanh D có mặt tại Tòa án để trình bày ý kiến nhằm hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh D không đến và cũng không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị T. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh D đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cả hai bên đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, chị T yêu cầu được ly hôn với anh D là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, chị Mai Thị Thu T và anh Phạm Vũ Thanh D một con chung là Phạm Mai Duy A, sinh ngày 05/12/2018. Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Tòa án đã triệu tập anh D để trình bày ý kiến về con chung nhưng anh D vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình tố tụng. Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con…trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con…con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi…”. Xét cháu Phạm Mai Duy A còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi, cháu đang sống ổn định với chị T nên cần giao cháu Duy A cho chị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của con chung.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Nghĩa vụ nuôi con là của cả cha lẫn mẹ, khi ly hôn, người không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con với số tiền 2.000.000 đồng/tháng. Căn cứ quy định tại Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình, sau khi xem xét điều kiện thực tế của các bên và nhu cầu thiết yếu của con chung ở độ tuổi nêu trên thì thấy mức cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng là phù hợp nên có căn cứ chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[5] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Mai Thị Thu T phải chịu án phí ly hôn, anh Phạm Vũ Thanh D phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Mai Thị Thu T đối với bị đơn anh Phạm Vũ Thanh D về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị Thu T được ly hôn với anh Phạm Vũ Thanh D (Giấy chứng nhận kết hôn số 54, ngày 20/7/2018 do Ủy ban nhân dân phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương cấp).

- Về con chung: Giao con chung Phạm Mai Duy A, sinh ngày 05/12/2018 cho chị Mai Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Vũ Thanh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với số tiền 2.000.000 đồng/tháng. Thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Sau ly hôn, anh Phạm Vũ Thanh D có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, chị Mai Thị Thu T không được cản trở anh Phạm Vũ Thanh D thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

2. Về án phí: Chị Mai Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0040332 ngày 27/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Anh Phạm Vũ Thanh D phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

3. Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 63/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:63/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;