Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lY số 13/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị L (Lê Thùy L), sinh năm 1996 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp RL, xã KH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Bùi Minh Y, sinh năm 1996 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp RL, xã KH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 08/01/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị L trình bày: Chị và anh Bùi Minh Y tự nguyện kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn ngày 28/9/2016 tại UBND xã KH. Sau khi kết hôn chị về làm dâu cho gia đình anh Y một thời gian sống hòa thuận, hạnh phúc. Tuy nhiêu, sau đó thì anh Y sinh ra nhiều tật xấu, không lo làm ăn, nhậu nhẹt bê tha về nhà mắng chửi, đánh đập chị, gần đây nhất lúc chị vừa sinh cháu Triệu V thì anh Y đánh và đuổi chị đi, từ đó chị và cháu Triệu V về nhà cha mẹ ruột chị sống đến nay. Thời gian này gia đình hai bên hàn gắn nhiều lần nhưng không thành và anh Y điện thoại mắng chửi, hăm dọa chị. Nay chị xét thấy vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu được ly hôn với anh Y.

Thời gian chung sống chị và anh Y có 02 con chung tên Bùi Thảo V1, sinh ngày 21/6/2016 và Bùi Triệu V, sinh ngày 25/3/2018. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu V; anh Y tiếp tục nuôi dưỡng cháu V1 và cấp dưỡng nuôi con không đặt ra yêu cầu.

Về tài sản chung tự thỏa thuận phân chia và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Bùi Như Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến, yêu cầu gì đối với nội dung khởi kiện của chị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh Y tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 28/9/2016 tại UBND xã KH, huyện TVT nên là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, chị L cho rằng anh Y không chăm lo cho gia đình, có hành vi bạo lưc đối với chị nhiều lần nên chị ly thân với anh Y hơn 01 năm nay. Mặt dù được hai gia đình hàn gắn tình cảm nhưng không thể chung sống lại được và yêu cầu được ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, anh Y đã được Tòa án tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản triệu tập tham gia tố tụng nhưng vẫn cố tình vắng mặt và cũng không gửi văn bản gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị L. Điều này chứng tỏ anh Y không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng và chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của chị L đặt ra.

[3] Xét thấy, quan hệ hôn nhân được xây dựng trên tình nghĩa vợ chồng. Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và chung sống với nhau. Chị L và anh Y không chung sống với nhau, cả hai đều không thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng và tình cảm của chị L đối với anh Y không còn. Do đó, Hội đồng xét xử xét cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L là có căn cứ.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống chị L và anh Y có 02 chung tên Bùi Thảo V1, sinh ngày 21/6/2016 và Bùi Triệu V, sinh ngày 25/3/2018. Sau khi ly hôn chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu V1 và không yêu cầu cấp dưỡng. Đối với cháu V thì do anh Y đang nuôi dưỡng nên tiếp tục giao cho anh Y nuôi dưỡng.

[5] Hội đồng xét xử xét thấy từ khi anh, chị sống ly thân cho đến nay thì cháu V do chị L nuôi dưỡng, cháu V1 do anh Y nuôi dưỡng thì hai cháu vẫn phát triển bình thường. Xét yêu cầu nuôi con của chị L là sự tự nguyện của chị, sự tự nguyện này anh Y không có ý kiến phản bác xem như anh Y đồng ý theo yêu cầu của chị L đặt ra việc nuôi dưỡng con chung. Do đó, cần tiếp tục giao cho chị L nuôi dưỡng cháu V và tiếp tục giao cháu V1 cho anh Y nuôi dưỡng là có căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[6] Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chị L và anh Y không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết là phù hợp.

[7] Về tài sản chung, nợ chung chị L xác định không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Đối với anh Y không có ý kiến về các vấn đề tài sản chung, nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là phù hợp.

[8] Án phí hôn nhân gia đình chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; khoản 3 Điều 228 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 56; Điều 81; khoản 1, 3 Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lY và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L. Cho chị Lê Thị L được ly hôn với anh Bùi Minh Y.

- Về con chung: Giao cháu Bùi Triệu V, sinh ngày 25/3/2018 cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Giao cháu Bùi Thảo V1, sinh ngày 21/6/2016 cho anh Y tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Anh Y và chị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cấp dưỡng nuôi con anh chị không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

- Về tài sản: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Án phí hôn nhân gia đình chị L phải chịu 300.000 đồng, chị đã dự nộp 300.000 đồng tại biên lai số 0002595 ngày 08/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời nay được chuyển thu, chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:63/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;