Bản án 62/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội vu khống

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 62/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI VU KHỐNG

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/2021/ TLST-HS, ngày 16 tháng 4 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2021/QĐXXST – HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Vương H (Vũ Ngọc H, Vũ Văn H, Vũ Thế H); sinh năm:

1974 tại huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKNKTT: Tổ , thị trấn MA, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Tổ , thị trấn MA, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 10/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Vũ Thế H, sinh năm 1952 và con bà Trịnh Thị H, sinh năm 1954; Bị cáo có vợ: Huỳnh Thị Hồng Y, sinh năm 1982 và 02 người con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền sự: Không. Tiền án: Không; Nhân thân: Năm 2002 bị TAND tỉnh lai Châu xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội: “Đánh bạc”, đến nay đã được xóa án tích; Bị cáo bị tạm giam, giữ từ ngày 25/01/2021 cho đến ngày xét xử, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Phạm Ngọc H, sinh năm 1972.

Nơi cư trú: Số nhà 02, khối 20/7, thị trấn Tuần Giáo, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nơi làm việc: Chi cục thi hành án dân sự huyện TG, tỉnh Điện Biên. (Có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông: Vũ Thế H, sinh năm 1952. Nơi cư trú: Tổ , thị trấn MA, huyện MA, tỉnh Điện Biên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Vũ Vương H (Vũ Ngọc H, Vũ Văn H, Vũ Thế H) được tóm tắt như sau:

Do bực tức ông Phạm Ngọc H là chấp hành viên giữ chức vụ Trưởng chi cục thi hành án dân sự huyện MA là người đã thi hành Quyết định cưỡng chế nhà đất của bố mẹ bị cáo là ông Vũ Thế H và bà Trịnh Thị H tại tổ dân phố 7, thị trấn MA, huyện MA. Ngày 17/11/2020, Vũ Vương H gửi đơn tố giác ông Phạm Ngọc H chiếm đoạt số tài sản đến Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng và đơn tố cáo đến một số cá nhân cơ quan huyện MA và huyện TG, Vũ Vương H tố cáo ông H gồm 03 nội dung chính:

Một là: Bị cáo Vũ Vương H tố cáo ông Phạm Ngọc H đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý thực hiện việc cưỡng chế thi hành án dân sự. Quá trình cưỡng chế đã cất giữ tài sản không đúng nơi quy định làm thất thoát, chiếm đoạt tài sản của gia đình ông H gồm: 02 lắc bạc, 02 dây truyền bạc, số tiền 750.000.000đ, 100 cây vàng loại 9999 và một số tài sản khác, tổng giá trị là 6.371.930.000đ.

Thứ 2: Bị cáo H tố cáo ông H tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự đối với thửa đất và tài sản trên đất tại TDP 7, thị trấn MA, huyện MA, tỉnh Điện Biên của gia đình bà Trịnh Thị H (mẹ ông H) trái quy định của pháp luật.

Thứ 3: Bị cáo H tố cáo ông H cố ý làm sai lệch hồ sơ, giả mạo chữ ký ở biên bản giao thông báo ngày 13/7/2017, giả mạo chữ ký và chữ viết của ông Vũ Thế H (bố bị cáo H).

Quá trình điều tra, xác minh cả ba nội dung tố giác, tố cáo nêu trên đều sai sự thật, về nội dung tố cáo ông H chiếm đoạt tài sản của gia đình là nội dung Vũ Vương H bịa đặt, vu khống ông Phạm Ngọc H, được giải quyết tại kết luận số 01/KL-CTHADS ngày 31/3/2020 của Chi cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên.

Ngày 17/01/2021 Cơ quan CSĐT công an huyện Mường Ảng đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Ngày 25/01/2021 ra Quyết định khởi tố bị can đối với Vũ Vương H.

Tại Cáo trạng số: 36/CT-VKSMA ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Vũ Vương H về hành vi “Vu Khống”. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm e, h Khoản 2 Điều 156; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ Vương H từ 06 tháng đến 10 tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 48 BLHS Chấp nhận sự tự nguyện công khai xin lỗi bị cáo H tới “Ông Cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên và cá nhân ông H” trước Hội đồng xét xử và trên Đài phát thanh truyền hình tỉnh Điện Biên; Đài phát thanh truyền hình huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phạm Ngọc H từ chối bồi thường không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét;

Về vật chứng: Áp dụng điểm a Khoản 1 điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3s, mặt lưng màu đỏ đã cũ, qua sử dụng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Vũ Vương H phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Tại đơn đề nghị của ông Phạm Ngọc H là bị hại từ chối không nhận tiền bồi thường, xin giảm nhẹ hình phạt và yêu cầu bị cáo H công khai xin lỗi “Ông Cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Ảng và cá nhân ông H trước Hội đồng xét xử và trên phương tiện thông tin đại chúng của huyện, tỉnh. Tại phiên tòa ông H không yêu cầu bị cáo xin lỗi trên trang cá nhân Facebook cá nhân bị cáo H.

Lời nói sau cùng Vũ Vương H nhận phạm tội “Vu Khống” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nội dung vụ án: Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2020 đến tháng 01/2021 Vũ Vương H đã làm đơn tố giác, tố cáo ông Phạm Ngọc H là chấp hành viên giữ chức vụ Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện MA gửi đến Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng, một số cơ quan của huyện Mường Ảng và huyện TG với nội dung bịa đặt ông H cố ý cưỡng chế tài sản trái quy định của pháp luật; làm thất thoát, chiếm đoạt tài sản và tiền tổng giá trị là 6.371.930.000đ và ngụy tạo làm sai lệch hồ sơ, giả mạo chữ ký, chữ viết. Ngoài ra bị cáo còn đăng tải nhiều nội dung, clip trên trang Facebook cá nhân của bị cáo Vũ Vương H có những lời lẽ xúc phạm, mục đích làm hạ uy tín, danh dự của ông H. Việc tố giác đều là bịa đặt, không đúng sự thật. Việc giải quyết tố cáo đã được giải quyết bằng kết luận số 01/KL-CTHADS ngày 31/3/2020 của Chi cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên.

Tại phiên tòa Vũ Vương H thừa nhận do bực tức ông Phạm Ngọc H bị cáo đã viết đơn tố giác, tố cáo ông H chiếm đoạt chiếm đoạt tài sản và tiền tổng giá trị là 6.371.930.000đ và ngụy tạo làm sai lệch hồ sơ, giả mạo chữ ký là bịa đặt, không đúng sự thật. Lời nhận tội của bị cáo H toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung Kết luận điều tra và Cáo trạng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Vũ Vương H về hành vi “Vu Khống” theo điểm e, h Khoản 2 Điều 156 BLHS như Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng truy tố và kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại Điều 156 BLHS có quy định:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

…… h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”.

[2]. Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến uy tín, danh dự của người khác được pháp luật bảo vệ, Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Vũ Vương H tố cáo ông Phạm Ngọc H đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý thực hiện việc cưỡng chế thi hành án dân sự. Quá trình cưỡng chế ông H đã cất giữ tài sản không đúng nơi quy định làm thất thoát, chiếm đoạt tài sản của gia đình bị cáo tổng giá trị là 6.371.930.000đ để trong tủ nhôm và ngụy tạo làm sai lệch hồ sơ, giả mạo chữ ký, chữ viết. Bị cáo H đã sử dụng điện thoại có kết nối mạng viễn thông đăng nhiều nội dung, clip trên trang Facebook cá nhân của bị cáo Vũ Vương H và có những lời lẽ xúc phạm, mục đích làm hạ uy tín, danh dự của ông H, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Vu khống” theo quy định tại điểm e, h khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 03 năm tù.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện MA, tỉnh Điện Biên được bố mẹ nuôi ăn học hết lớp 10/12. Năm 1998 kết hôn với chị Lò Thị G (đã ly hôn), sau đó kết hôn với chị Huỳnh Thị Hồng Y; bị cáo có 02 người con. Năm 2002 bị TAND tỉnh Lai Châu xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội: “Đánh bạc”, đến nay đã được xóa án tích. Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo đã có đơn xin rút đơn và gửi thư xin lỗi gửi đến các cơ quan và cá nhân ông H, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và từ chối bồi thường trách nhiệm dân sự, Mẹ bị cáo là bà Trịnh Thị H được Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên tặng Bằng khen khi tham gia kháng chiến nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, sau này trở thành công dân có ích cho xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại điều 52 BLHS.

Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra là cần thiết để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo đã ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại; Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được qui định tại khoản 1, khoản 2 điều 51 của BLHS, Hội đồng xét xử áp dụng điều 54 của Bộ luật hình sự cho bị cáo một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn.

Theo khoản 4 Điều 156 quy định bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung bằng tiền. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, thu nhập chủ yếu từ làm ruộng nên không có khả năng thi hành; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về đề nghị của ông Phạm Ngọc H yêu cầu bị cáo H công khai xin lỗi “Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Cơ quan Thi hành án dân sự huyện MA, tỉnh Điện Biên và cá nhân ông H” trước Hội đồng xét xử và trên Đài phát thanh truyền hình tỉnh Điện Biên; Đài phát thanh truyền hình huyện MA, tỉnh Điện Biên.

Tại phiên tòa ông H không yêu cầu bị cáo xin lỗi trên trang cá nhân Facebook cá nhân bị cáo H là tự nguyện nên hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo đã có lời xin lỗi “Ông Cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Chi cục Thi hành án dân sự huyện MA và cá nhân ông H” và được ông H chấp nhận; Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chuyển lời xin lỗi khi bản án có hiệu lực pháp luật tới Đài phát thanh truyền hình tỉnh Điện Biên; Đài phát thanh truyền hình huyện MA, tỉnh Điện Biên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Vũ Thế H đã ủy quyền cho bị cáo H đòi lại tài sản. Trong quá trình điều tra ông H trình bày ông được bị cáo H lập, ông chỉ việc ký. Ông không ủy quyền cho bị cáo H tố giác, tố cáo mà chỉ ủy quyền cho H đòi lại tài sản cho gia đình. Ông H không biết việc H làm đơn tố giác, tố cáo ông H mà chỉ nghe theo H rồi khai báo không trung thực nên HĐXX không xem xét.

[5]. Về đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát xét thấy phù hợp nên hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[6]. Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Ông Phạm Ngọc H từ chối bồi thường nên hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng: 01 chiếc điện thoại di động OPPO A3s, mặt lưng màu đỏ có nhãn hiệu OPPO đã cũ, qua sử dụng bị cáo đã dùng vào việc phạm tội nên cần phải tịch thu sung quĩ nhà nước.

[9]. Về án phí: Bị cáo Vũ Vương H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Vương H (Vũ Ngọc H, Vũ Văn H, Vũ Thế H) phạm tội:“Vu khống”.

Áp dụng: điểm e, h khoản 2 Điều 156; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt: Vũ Vương H (Vũ Ngọc H, Vũ Văn H, Vũ Thế H) 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25 tháng 01 năm 2021.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 48 BLHS Chấp nhận sự tự nguyện công khai xin lỗi của bị cáo H tới “Ông Cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên; Chi cục Thi hành án dân sự huyện MA, tỉnh Điện Biên và cá nhân ông H” trước Hội đồng xét xử;

Phát 03 lần trên Đài phát thanh truyền hình tỉnh Điện Biên; Đài phát thanh truyền hình huyện MA, tỉnh Điện Biên khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a Khoản 1 điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động OPPO A3s, mặt lưng màu đỏ có nhãn hiệu OPPO đã cũ, qua sử dụng của bị cáo Vũ Vương H.

Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/4/2021.

3. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bi cáo Vũ Vương H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại Uỷ ban nhân dân nơi cư trú của người vắng mặt về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1806
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội vu khống

Số hiệu:62/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;