Bản án 62/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy   

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 62/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2021/TLST - HS ngày 19 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2021/QĐXXST- HS ngày 06/5/2021, thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử vụ án đối với:

Bị cáo Phạm Công Th, sinh ngày 18 tháng 9 năm 1981.

Nơi cư trú: Số nhà 09, ngõ 76, đường ChVA, tổ 08, phường QTr, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công T (đã chết) và bà Trần Thị Th; có vợ: Đỗ Thị Thu Tr (đã ly thân); có: 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Bản án số 57/1999/HSST ngày 01/9/1999 của Tòa án nhân dân thị xã Thái Bình (nay là thành phố Thái Bình) xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù tháng 12/1999, chấp hành xong án phí tháng 9/2004.

- Bản án số 184/2000/HSST ngày 11/12/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù tháng 10/2001, chấp hành xong án phí tháng 9/2004.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 189/QD/XPHC ngày 27/6/2006 của Công an phường Tiền phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Quyết định số 559/QĐ - CT ngày 07/9/2006 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 12 tháng do nghiện ma túy.

- Bản án số 117/2008/HSST ngày 18/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù tháng 5/2011, chấp hành xong án phí tháng 11/2008.

- Quyết định số 905/QD-UBND ngày 27/4/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng do nhiều lần trộm cắp tài sản, ngày 03/4/2014 chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/01/2021 đến ngày 22/01/2021 chuyển tạm giam cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên Tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Thái C, sinh năm 1976.

Nơi cư trú: Số nhà 02/01, tổ 03, phường KB, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Bà Trần Thị Th, sinh năm 1951.

Nơi cư trú: Số nhà 09, ngõ 76, đường Chu Văn An, tổ 8, phường QTr, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

- Anh Đoàn Thanh T, sinh năm 2001, trú tại bản Suối Voi, xã LSS, huyện M Nh, tỉnh Điện Biên.

Chỗ ở hiện nay: Ngõ 142, đường Tr L, phường Tr L, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1996, trú tại tổ dân phố MD, thị trấn DĐ, huyện ThTh, tỉnh Thái Bình.

(Có mặt: bà Th; vắng mặt: anh C, anh T, anh T).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 00 giờ 30 phút ngày 19/01/2021 tại quán game T.A Esport Stadium, địa chỉ số 192 đường Hai Bà Trưng, tổ 09, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình kiểm tra hành chính phát hiện Phạm Công Th có biểu hiện liên quan đến hoạt động ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Đoàn Thanh T và anh Nguyễn Tiến T. Phạm Công Th đã tự giác lấy từ túi áo khoác phía cánh tay bên phải giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ bên trong có chứa dạng tinh thể trong suốt, Th khai nhận đó là ma túy đá Th cất dấu để sử dụng cho bản thân, tổ công tác niêm phong vào một phong bì dán kín, trên mép dán có chữ ký của Th và những người chứng kiến. Sau đó tổ công tác yêu cầu Phạm Công Th đưa xe máy nhãn hiệu Honda – Wave Anpha màu trắng, biển số 17B5 - 20345 và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để làm rõ. Tại trụ sở Công an phường Đề Thám, kiểm tra người Phạm Công Th thu giữ trong túi quần bên trái của Th 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu xanh, 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng hồng, thu trong túi quần hậu bên phải của Th, 01 ví giả da màu nâu bên trong có 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ căn cước công dân đều mang tên Phạm Công Th và số tiền 4.500.000 đồng, kiểm tra xe máy không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến ma túy. Sau đó tổ công tác Công an thành phố Thái Bình đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và quản lý, niêm phong vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 23/KLGĐMT - PC09 ngày 20/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8474 gam.

Tại phiên Tòa bị cáo Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 63/CT- VKSTPTB ngày 19/4/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Phạm Công Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Th về tội danh và điều luật như bản cáo trạng số 63/CT- VKSTPTB và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 50 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Công Th. Xử phạt bị cáo Th từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo Th không có ý kiến gì tranh luận với Kiểm sát viên về bản luận tội đối với bị cáo tại phiên Tòa. Bị cáo Th nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên,Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và người chứng kiến không khiếu nại hay có ý kiến gì nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2]. Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 00 giờ 45 phút ngày 19/01/2021, tại trụ sở Công an phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình;

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 01 giờ 45 phút ngày 19/01/2021 tại trụ sở Công an phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình;

- Bản kết luận giám định số 23/KLGĐMT- PC09 ngày 20/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine,có khối lượng 0,8474 gam;

- Lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thái C, - Lời khai của người chứng kiến anh Đoàn Thanh T và anh Nguyễn Tiến T;

Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 19/01/2021 tại quán game T.A Esport Stadium địa chỉ số 192 đường Hai Bà Trưng, tổ 09, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Phạm Công Th tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8474 gam mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, hành vi của bị cáo Th đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội đúng pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…………………………………………………………………………………….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………………………………………………………………..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm C việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ T sản.

[3]. Đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 túi ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8474 gam, mục đích để sử dụng. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Th là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt vi phạm hành chính và đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt:

- Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần thiết phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội cai được ma túy đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Th có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Đối với số Methamphetamine, Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo Th còn lại sau khi giám định là 0, 6075 gam và bao gói, cần áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng, một điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s màu trắng hồng, đã qua sử dụng của bị cáo Th không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Th.

Đối với một ví giả da màu nâu của bị cáo Th không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Th.

Đối với một căn cước công dân, một giấy phép lái xe mô tô đều mang tên bị cáo Phạm Công Th nên trả lại cho bị cáo.

Đối với một xe máy nhãn hiệu Honda – Wave Anpha, màu trắng, biển số 17B5 – 203.45 bị cáo Th mượn của anh C nhưng anh C không biết việc bị cáo mượn xe của anh để sử dụng vào việc đi tàng trữ trái phép chất ma túy, quá trình điều tra xác định anh C là người quản lý hợp pháp chiếc xe máy trên nên cần trả lại chiếc xe trên cho anh C là phù hợp với quy định của pháp luật.

Cơ quan điều tra C an thành phố Thái Bình đã thu giữ của bị cáo Phạm Công Th số tiền 4.500.000 đồng, qua điều tra xác minh số tiền trên là tài sản thuộc sở hữu của bà Trần Thị Th, sinh năm 1951. Nơi cư trú: Số nhà 09, ngõ 76, đường ChVA, tổ 8, phường QTr, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình nên cần chấp nhận cơ quan điều tra C an thành phố Thái Bình trả lại cho bà Th là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7]. Về nguồn gốc Methamphetamine: Bị cáo Th khai mua tại khu vực cầu Cống Trắng, phường QTr, thành phố Thái Bình của một người đàn ông khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

[8]. Về án phí: Bị cáo Th phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9].Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 50, điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106, điều 135, điều 136, điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Công Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Công Th 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2021.

3. Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy số Methamphetamine thu được của bị cáo Phạm Công Th còn lại sau khi giám định là 0,6075 gam và bao gói.

- Trả lại một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng, một điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s màu trắng hồng đã qua sử dụng cho bị cáo Phạm Công Th.

- Trả lại một ví giả da màu nâu cho bị cáo Phạm Công Th.

- Trả lại một căn cước công dân, một giấy phép lái xe mô tô cho bị cáo Phạm Công Th.

Trả lại một xe máy nhãn hiệu Honda – Wave Anpha, màu trắng, biển kiểm soát 17B5 – 203.45 cho anh Nguyễn Thái C, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Số nhà 02/01, tổ 03, phường KB, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

(Số vật chứng trên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình có đặc điểm mô tả như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2021).

- Chấp nhận Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình trả số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) cho bà Trần Thị Th, sinh năm 1951. Nơi cư trú: Số nhà 09, ngõ 76, đường ChVA, tổ 8, phường QTr, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình 4. Về án phí: Bị cáo Phạm Công Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Th, bà Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 01/6/2021.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 62/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy   

Số hiệu:62/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;