TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 61/2021/HSST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 47/2021/HSST ngày 23/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST - HS ngày 30 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn H, sinh năm 1981 tại SM, Sơn La. Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn NH, xã NT, huyện SM, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn K và bà Tòng Thị B, vợ là Lò Thị C có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Theo Danh, chỉ bản 025 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 21/12/2020 và Trích lục tiền án, tiền sự số 3019250/PV06 ngày 18/3/2021 thể hiện bị cáo không có tiền sự, tiền án; Nhân thân: Không có các tiền án, có 01 tiền sự cai nghiện bắt buộc năm 2008, đã được xóa.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn H: Ông Vũ Văn Dũng – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng công khai tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09h00 ngày 13/12/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy, Lò Văn H một mình đi đến khu vực thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La gặp và mua một người đàn ông không quen biết đứng ở ria đường (H không nhớ đoạn đường nào) 01 mảnh túi nilon chứa 04 viên ma túy “Ngựa” và 01 mảnh túi nilon chứa ma túy Heroine với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H cất giấu vào trong túi xách đeo trên người, sau đó H sử dụng hết một phần ma túy Heroine ở dọc đường. Đến khoảng 13h00’ cùng ngày, H đi xe ô tô khách đi từ thành phố Sơn La đến bến xe Mỹ Đình, rồi thuê ông Nguyễn Viết Đ, sinh năm 1963, hộ khẩu thường trú: Xóm x, XP, XT, Nam Định - là xe ôm, chở H đến khu vực thị trấn C, huyện YP, tỉnh Bắc Ninh để làm xây dựng với giá 250.000 đồng, ông Đ đồng ý. Khi ông Đ chở H đến khu vực đường gom Võ Nguyên Giáp thuộc thôn Thố Bảo, xã Vân Nội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội thì bị lực lượng Cảnh sát cơ động - Công an thành phố Hà Nội dừng xe kiểm tra, phát hiện bắt giữ, sau đó chuyển H cùng tang vật cho Công an huyện Đông Anh xử lý. (BL số 27; 32; 61 – 71).
Vật chứng tạm giữ của Lò Văn H: 01 túi xách bằng da màu nâu, trắng bên trong có: 01 mảnh túi nilon màu hồng chứa 04 viên nén màu hồng và 01 mảnh túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ-đen, số IMEI 1: 355424058254049, số IMEI 2: 355424058254056, bên trong lắp sim số thuê bao: 0338537807. (BL số 57 – 59).
Tạm giữ của ông Nguyễn Viết Đ: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát: 18Z3 - 6379, số khung: GD110-99112293, số máy: FMH- 99011709. (BL số 77 – 79).
Tại bản kết luận giám định số 10847/KLGĐ- PC09 ngày 23/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội (BL số 37), kết luận:
- Chất bột màu trắng bên trong 01 mảnh nilông là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,108 gam.
- 04 viên nén màu hồng bên trong 01 mảnh nilông đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,401 gam.
Tại cơ quan điều tra, Lò Văn H khai nhận hành vi của mình phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được. Mục đích H mua và cất giấu ma tuý là để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không còn mục đích nào khác.
Lời khai của ông Nguyễn Viết Đ phù hợp với lời khai của Lò Văn H và phù hợp với tài liệu điều tra, sơ đồ hiện trường thu thập được. Việc Lò Văn H mua và cất giấu ma túy trong người ông Đ không biết, H cũng không nói cho ông Đ biết nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.
Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho H ngày 13/12/2020 tại khu vực thành phố Sơn La, H khai H không biết tên tuổi địa chỉ và đây là lần đầu H mua ma tuý của người này. Ngoài lời khai của H thì không còn tài liệu nào khác về người đàn ông đã bán ma tuý cho H nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát: 18Z3 - 6379, số khung: GD110-99112293, số máy: FMH-99011709 tạm giữ của ông Đ. Kết quả điều tra xác định không phải xe vật chứng và là tài sản hợp pháp của ông Đ nên ngày 24/02/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả xe cho ông Nguyễn Viết Đ.
Đối với 01 phong bì dán kín có chữ ký của Lò Văn H, cán bộ niêm phong và Giám định viên, bên trong có 0,087 gam ma tuý loại Heroin (sau giám định, Phòng PC09 đã thu mẫu 0,021 gam) và 0,3 gam ma tuý loại Methamphetamine ( sau giám định, Phòng PC09 đã thu mẫu 0,101 gam); 01 túi xách bằng da màu nâu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ-đen, bên trong lắp sim số thuê bao: 0338537807 tạm giữ của Lò Văn H. Kết quả điều tra xác định là tài sản của H và là tang, vật chứng của vụ án, đã chuyên Tòa án nhân dân huyện Đông Anh giải quyết theo thẩm quyền.
Tại bản Cáo trạng số 44/CT-VKS-ĐA ngày 18/3/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Bị cáo xác định do nghiện ma túy nên bị cáo mua để tích trữ dùng dần. Bị cáo nhận thức và ăn năn về hành vi của mình, xin được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo H, trình bày lời bào chữa và đề nghị: Nhất trí về tội danh của bị cáo và đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo giúp cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Gia đình bị cáo có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do vậy đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất trong khung hình phạt.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt:
Lò Văn H: Từ 20 tháng tù đến 24 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và là người nghiện ma túy.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách bằng da màu nâu trắng; sim số thuê bao: 0338537807; 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lò Văn H, Cán bộ niêm phong và Giám định viên bên trong có 0,3 gam ma tuý loại Methamphetamine (sau giám định) và 0,087 gam ma tuý loại Heroin (sau giám định).
Tịch thu sung công quỹ nhà nước : 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ-đen, số IMEI 1: 355424058254049, số IMEI 2: 355424058254056.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 22 giờ ngày 13/12/2020 tại thôn Thố Bảo, xã Vân Nội,huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, Lò Văn H đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,401 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,108 gam ma túy loại Heroine (tổng khối lượng: 0,509 gam) để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ.
Bị cáo Lò Văn H thừa nhận số ma túy mà cơ quan điều tra thu giữ trong người bị cáo trong quá trình khám xét ngày 13/12/2020 là do bị cáo mua của đối tượng không xác định được chính xác họ tên, năm sinh, nơi cư trú với mục đích để sử dụng. Số lượng ma túy thu được của Lò Văn H đã được cơ quan giám định xác định có trọng lượng 0,108 gam gam ma túy loại Heroine và 0,401 gam ma túy loại Methamphetamine, hai loại ma túy này được quy định tại cùng một điểm của các khoản thuộc điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ – CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì cộng khối lượng các ma túy lại với nhau để xác định tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật được áp dụng. Do vậy, xác định bị cáo H tàng trữ 0,509 gam ma túy loại Heroine và Methamphetamine quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm không chỉ xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác, đặc biệt là bệnh HIV/AIDS. Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng do coi thường pháp luật, không chịu tu dưỡng bản thân nên vẫn cố ý phạm tội. Do vậy, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định: Bị cáo H có tiền sự về việc bị đưa đi cai nghiện bắt buộc năm 2008. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo H có bố tham gia cách mạng được tặng thưởng huân chương, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện khó khăn nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Khi xem xét và cân nhắc hình phạt đối với bị cáo cần cân nhắc áp dụng hình phạt tù tương xứng với mức độ hành vi, giảm nhẹ một phần cho bị cáo và tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách bằng da màu nâu trắng; sim số thuê bao: 0338537807; 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lò Văn H, Cán bộ niêm phong và Giám định viên bên trong có 0,3 gam ma tuý loại Methamphetamine (sau giám định) và 0,087 gam ma tuý loại Heroin (sau giám định).
Tịch thu sung công quỹ nhà nước : 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ-đen, số IMEI 1: 355424058254049, số IMEI 2: 355424058254056.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm i Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt:
Lò Văn H: 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách bằng da màu nâu trắng; sim số thuê bao:
0338537807; 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lò Văn H, Cán bộ niêm phong và Giám định viên bên trong có 0,3 gam ma tuý loại Methamphetamine (sau giám định) và 0,087 gam ma tuý loại Heroin (sau giám định).
Tịch thu sung công quỹ nhà nước : 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ-đen, số IMEI 1: 355424058254049, số IMEI 2: 355424058254056.
(Tình trạng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/3/2021 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Bị cáo Lò Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 61/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 61/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về