Bản án 61/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 61/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 111/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 43/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trịnh Đình T; Sinh năm: 1981

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2.Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L; Sinh năm: 1983

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 06/5/2019 và tại bản tự khai ngày 13/6/2019, anh Trịnh Đình T trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị L kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 13/10/2009 tại Ủy ban nhân dân (Viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tính không hòa hợp không cùng chung quan điểm sống nên đôi lúc có sảy ra cãi cọ. Thời gian kéo dài khiến cho vợ chồng đều cảm thấy chán nản, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Anh và chị L đã sống ly thân từ cuối năm 2014 đến nay, không còn quan hệ tình cảm gì với nhau nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn chị L.

Về con cái: Vợ chồng có một con chung là cháu Trịnh Đức A, sinh ngày 11/7/2010, hiện nay cháu đang ở với anh. Ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và triệu tập chị L hai lần để nộp bản tự khai nhưng chị L đều vắng mặt nên không có lời khai của chị L trong hồ sơ vụ án.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành, thực hiện đúng các quy định của BLTTDS. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Xét thấy giữa anh T và chị L mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Về hôn nhân, xử cho anh Trịnh Đình T được ly hôn chị Nguyễn Thị L. Về con cái, giao cháu Trịnh Đức A, sinh ngày 11/7/2010 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.

[2]. Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng chị L không có mặt nên tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt chị L và đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho chị L được biết.

[3]. Chị L đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T và chị L.

[5] Về hôn nhân: AnhTrịnh Đình T và chị Nguyễn Thị L kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 13/10/2009 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tính không hòa hợp không cùng chung quan điểm sống nên đôi lúc có sảy ra cãi cọ. Thời gian kéo dài khiến cho vợ chồng đều cảm thấy chán nản, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Anh T và chị L đã sống ly thân từ cuối năm 2014 đến nay, không còn quan hệ tình cảm gì với nhau nữa. Việc này đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương. Nay anh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với chị L, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Trịnh Đình T được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

[6] Về con cái: Anh Trịnh Đình T và chị Nguyễn Thị L có một con chung. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu A luôn ở với bố, bản thân cháu cũng có nguyện vọng được ở với bố. Vì vậy, để tránh sự xáo trộn trong học tập và sinh hoạt của cháu, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của anh T. Giao cháu A cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị Lan không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T.

[7] Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết cầu nên miễn xét.

[8] Về án phí: Anh T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1.Về hôn nhân: Xử cho anh Trịnh Đình T được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

2.Về con cái: Giao cháu Trịnh Đức A, sinh ngày 11/7/2010 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T. Chị L có quyền qua lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3.Về án phí: Anh Trịnh Đình T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền anh đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành, theo biên lai số AA/2016/0003654 ngày 30/5/2019. Anh T đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt anh T và chị L. Anh T và chị L có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:61/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;