TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 61/2018/HSST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 59/HSST ngày 19 tháng 11 năm2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Khắc V, tên gọi khác: Không, sinh ngày 01 tháng 5 năm 1986, tại huyện Y, tỉnh Nghệ An.
Nơi cư trú: Xóm ĐH, xã Th, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: kinh; Nghề nghiệp: Lái máy; Trình văn hóa: 12/12; Con ông: Trần Khắc T (đã chết) và bà Nguyễn Thị X; Vợ: Phan Thị M (đã ly hôn); Con: 02 người, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị tạm giữ, tạm giam 25/9/2018 đến nay. Có mặt. Người bị hại:1. Anh Phạm Anh T, sinh năm 1990
Địa chỉ: Số 68, đường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An.
Đơn vị công tác: Công trình đập Thủy điện M, xã Y, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
2.Anh Dương Văn Đ, sinh năm 1982
Địa chỉ: Xóm 6, xã H, thành phố V, tỉnh Nghệ An. (Có đơn xin vắng mặt). Nguyên đơn dân sự: Công ty TNHH H. Người đại diện: Ông Phạm Đình H – chức vụ: Giám đốc.
Người được ủy quyền: Anh Phạm Anh T, sinh năm 1990.
Đơn vị công tác: Công trình đập Thủy điện M, xã Y, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Quốc Ph, sinh năm 1990.
Địa chỉ: Xóm 3, xã Th, huyện C, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Khắc V là công nhân lái máy cẩu cho công ty TNHH H (có trụ sở tại thành phố V) đang thi công dự án hồ chứa nước M, xã Y, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Ngày 25/8/2018, Trần Khắc V về huyện Y thăm gia đình, sau đó, đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì đi lên xã Y, huyện Q để làm việc. Khi đến xã Y, V đi đến quán nước gần ngã ba đường vào công trình thi công đập chứa nước M để lấy xe máy Wave màu đỏ biển kiểm soát 37L5 -5799 (là tài sản của công ty TNHH H giao cho cán bộ công nhân trong công ty sử dụng) để đi ăn cơm. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Trần Khắc V đi xe máy đến quán tạp hóa gần công ty để sạc pin điện thoại, sau đó, V đi một mình vào văn phòng công ty. Khi V vào văn phòng thấy cửa không khóa và phòng đang bật điện sáng, thấy 01 chiếc túi màu nâu đặt trên bàn, V lục tìm trong túi thì phát hiện có 02 chiếc điện thoại Samsung J2 Prime đã qua sử dụng (thường dùng để chụp ảnh công trường). V lấy và cất vào túi quần đang mặc. Sau đó, V tiếp tục đi sang phòng chỉ huy nhưng do cửa phòng đóng nên V đã phá khóa bằng cách cầm nắm cửa giật và dùng vai đẩy thì phá được cửa. Khi vào được phòng thì thấy trên bàn có 01 máy tính xách tay và cuối phòng có 01 chiếc rương bằng tôn đang khóa. V dùng tay cạy nắp rương lên, lấy trong rương 01 chiếc ba lô lục tìm tài sản và trộm cắp được số tiền 4.800.000,đ. Sau đó, V lấy 01 chiếc ba lô màu xanh để bỏ máy tính xách tay vào và đi ra khỏi phòng.
Khoảng 21 giờ cùng ngày, V điều khiển xe máy mang theo toàn bộ tài sản trộm cắp được đến nhà anh Nguyễn Văn D, trú tại xóm 9, xã Q, huyện L để gửi số tài sản trên. Tại đây, V mở chiếc ba lô đựng máy tính xách tay ra kiểm tra thì phát hiện trong ba lô có 01 chiếc điện thoại Samsung J2 Prime và đếm lại số tiền trộm cắp được tổng cộng là 4.800.000,đ, V bỏ thêm 200.000,đ là tiền của V tổng cộng 5.000.000,đ. V gửi anh D số tiền 5.000.000,đ, 01 máy tính xách tay, 01 điện thoại rồi quay trở lại công trình tại xã Y, huyện Q.
Khoảng 14 giờ ngày 26/8/2018, Trần Khắc V đi xe ca để về quê tại huyện Y. Khi đi qua xã Q, huyện L, V đã gọi điện thoại cho anh D để lấy tiền và tài sản đã gửi trước đó. Sau đó, V đi đến huyện C bán 02 chiếc điện thoại trộm cắp với giá1.000.000,đ. Toàn bộ số tiền V đã tiêu xài cá nhân hết. Tài sản do Trần Khắc V trộm cắp được xác định: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP loại Hp Pavilion; 01 túi vải dạng ba lô màu đen – xanh thuộc quyền sở hữu của anh Phạm Anh T.
03 điện thoại nhãn hiệu Samsung J2 Prime màu ghi bạc thuộc sở hữu của Công ty TNHH H (02 điện thoại di động đã được trả lại cho Công ty THHH H, 01 chiếc điện thoại không thu hồi được, Công ty không yêu cầu bồi thường).Số tiền 4.800.000,đ là tài sản thuộc sở hữu của anh Dương Văn Đ. Số tiền không thu hồi được, anh Đ không yêu cầu bồi thường.
Bản kết luận định giá tài sản số 52 ngày 07/9/2018, của Hội đồng định giá tài sản – UBND huyện Q kết luận: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP loại Hp Pavilion đã qua sử dụng có giá trị là 3.000.000,đ; 03 điện thoại Samsung J2 Prime màu ghi bạc đã qua sử dụng có giá trị 6.000.000,đ; 01 túi vải dạng ba lô màu đen – xanh đã qua sử dụng có giá trị 80.000,đ. Tổng giá trị tài sản do Trần Khắc V trộm cắp là 13.880.000,đ.
Vật chứng vụ án: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP loại Hp Pavilion; 02điện thoại nhãn hiệu Samsung J2 Prime màu ghi bạc; 01 túi vải dạng ba lô màu đen– xanh, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu. Riêng chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J2 Prime Trần Khắc V đã bán chocửa hàng điện thoại di động PQ, do anh Nguyễn Quốc Ph làm chủ cửa hàng, tại xã Th, huyện C, tỉnh Nghệ An. Anh Ph đã bán cho người khác nên không thu hồi lại được.
Về trách nhiệm dân sự: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP loại Hp Pavilion;02 điện thoại Samsung J2 Prime màu ghi bạc; 01 túi vải dạng ba lô màu đen – xanh, đã trả lại cho chủ sở hữu. Người bị hại và nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường và hoàn trả. Tại bản cáo trạng số 58/VKS-HS ngày 18/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo: Trần Khắc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Khắc V đã khai nhận tội.
Công ty TNHH H đang thi công dự án hồ chứa nước bản M, xã Y, huyện Q. Tại đây, V đã trộm cắp 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP có giá trị 3.000.000,đ, 03 chiếc điện thoại nhãn hiệu SamSung J2Prime có giá trị 6.000.000,đ, 01 túi vải có giá trị 80.000,đ và số tiền 4.800.000,đ. Tổng giá trị tài sản do Trần Khắc V trộm cắp là 13.880.000,đ. Như vậy, hành vi của Trần Khắc V đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật như bản cáo trạng số 58/VKSHS ngày 16/11/2018.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo: Trần Khắc V phạm tội: Trộm cắp tài sản.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hìnhsự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Khắc V từ 9 đến 12 tháng tù.
Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP loại Hp Pavilion; 02 điện thoại Samsung J2 Prime màu ghi bạc; 01 túi vải dạng ba lô màu đen – xanh, đã trả lại cho chủ sở hữu. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường và hoàn trả nên không đề nghị xem xét.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo nói lời sau cùng, đã tỏ ra ăn năn và hối hận về hành vi của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những chứng cứ xác định bị cáo có tội:
Công ty TNHH H đang thi công dự án hồ chứa nước M, xã Y, huyện Q. Tại đây, V đã trộm cắp 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP có giá trị 3.000.000,đ, 03 chiếc điện thoại nhãn hiệu SamSung J2Prime có giá trị 6.000.000,đ, 01 túi vải có giá trị80.000,đ và số tiền 4.800.000,đ. Tổng giá trị tài sản do Trần Khắc V trộm cắp là13.880.000,đ; Biên bản định giá tài sản số 52 ngày 07/9/2018, của Hội đồng định giá tài sản – UBND huyện Quỳ Hợp; vật chứng thu được trong vụ án, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Như vậy, hành vi của Trần Khắc V đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” và phải chịu trách nhiệm hình sự, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ra tâm lý lo lắng trong việc quản lý và bảo vệ tài sản, gây ra mâu thuẫn, nghi ngờ lẫn nhau trong khu vực công trình đang thi công. Do đó, cần phải xử lý nghiêm để giáo dục răn đe những người khác.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, gia đình có công với nước (mẹ bị cáo được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến).
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000,đ đến 50.000.000,đ”, bị cáo Trần Khắc V là người lao động phổ thông, thu nhập thấp, có khó khăn về kinh tế. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung.
[5] Đối với anh Nguyễn Văn D, đã cho V gửi tài sản sau khi trộm cắp. Tuy nhiên, anh D không biết được đó là tài sản do V trộm cắp nên không xem xét xử lý.
[6] Đối với anh Nguyễn Quốc Ph là người mà Trần Khắc V đã bán 02 chiếc điện thoại di động. Tuy nhiên anh Ph không biết được đó là tài sản do V phạm tội mà có nên không xem xét xử lý.
[7] Về vật chứng: Đã trả lại cho người bị hại và nguyên dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường và hoàn trả, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Căn cứ vào điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo: Trần Khắc V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Trần Khắc V 8 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 25/9/2018.
Về án phí: Căn cứ vào điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000,đ (hai trăm ngàn đồng chẵn).
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bên vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 61/2018/HSST ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 61/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về