Bản án 60/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 61/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Phan Thanh L, tên gọi khác: Chó em, sinh năm 2001, tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố H, Phường B, thị xã Q T, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; on ông: Phan Thanh H (chết); Con bà: Trần Thị Châu S hiện trú tại: Khu phố H, Phường B, thị xã Q T, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con út; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/3/2020 tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thế Phúc Th, sinh năm 1999, tại K T; Nơi cư trú: Khu phố H, Phường N, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Thế Phúc D và bà Ngô Thị Bích C hiện đều trú tại: Khu phố H, Phường N, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt Nguyễn Thế Phúc Th 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, hiện đang trong thời hạn kháng cáo và chưa xét xử phúc thẩm nên bản án chưa có hiệu lực pháp luật.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/3/2020 tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Lê Trọng Ngh, sinh năm 1999, tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố H, Phường N, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ chụp ảnh; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Đình B (chết); Con bà: Lê Thị Th Hiện trú tại: Khu phố H, Phường N, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/3/2020 tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Nhng người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: Anh Hoàng Hà Khánh T, sinh năm 2002, địa chỉ: Khu phố B, Phường M, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ ngày 27/3/2020, tại phòng số 510 khách sạn Mường Thanh thành phố Đ H, Phan Thanh L, Nguyễn Thế Phúc Thị và Nguyễn Lê Trọng Ngh bàn bạc thống nhất với nhau tìm mua ma túy hồng phiến để sử dụng, sau đó góp tiền lại trả. L mượn điện thoại của Nghĩa rồi gắn sim số 0705.159.999 của mình vào và gọi cho Hoàng Hà Khánh T (có số thuê bao 0768.596.286) hỏi mua 10 viên ma túy. Liên lạc với T xong, Lâm nói với Th và Ngh là T đồng ý bán 10 viên với giá 700.000 đồng (bán nợ), sau đó L đi có việc và dặn Th, Ngh lát nữa T đến giao ma túy hồng phiến thì nhận. Khoảng 15 phút sau Tùng đến phòng giao 10 viên ma túy cho Ngh và Th, đồng thời Ngh, Th mời T cùng sử dụng nên T làm dụng cụ và cả 03 người sử dụng hết 03 viên ma túy thì Tùng ra về. Sau khi Tùng đi khoảng 10 phút thì L quay lại phòng, Ngh làm dụng cụ để sử dụng ma túy rồi cùng L và Th sử dụng tiếp 02 viên. 05 viên ma túy còn lại Ngh để ở trên bàn thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ 05 viên ma túy trên.

Tại bản kết luận giám định số 304/KLGĐ ngày 01/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:

- 03 (Ba) viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M có khối lượng 0,2929 gam là ma túy loại Methamphetamine;

- 02 (Hai) viên nén màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu M có khối lượng 0,1897 gam là ma túy loại Methamphetamine;

Tại bản cáo trạng số 66/QĐ/CT-VKSĐH ngày 10/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đã truy tố bị cáo Phan Thanh L, Nguyễn Thế Phúc Th và Nguyễn Lê Trọng Ngh bị VKSND thành phố Đông Hà truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Phan Thanh L từ 18 đến 21 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Thế Phúc Th từ 16 đến 18 tháng tù.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Lê Trọng Ngh từ 16 đến 18 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho Phan Thanh L 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám, màn hình cảm ứng, có số thuê bao: 0962.857.777, số IMEI: 353964100474709 và số tiền 1.000.000 đồng; Trả lại cho Nguyễn Thế Phúc Th 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng có số thuê bao 0865.433.074, số IMEI: 359407081764445 và số tiền 1.000.000 đồng; Trả lại cho Nguyễn Lê Trọng Ngh 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0363.799.599, số IMEI: 353106103306849; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.000 đồng; Tịch thu và tiêu hủy số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3057903 và 01 võ chai nhựa màu trắng; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0705.159.999, số IMEI: 354869095257325.

Bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo Phan Thanh L: Bị cáo đã biết hành vi sai trái của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Bị cáo Nguyễn Thế Phúc Th: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo nhận ra sai trái và rất hối hận, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Lê Trọng Ngh: Trong thời gian bị giam trong trại tạm giam bị cáo suy nghĩ về lỗi lầm của mình bị cáo rất hối hận và thương mẹ, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về chăm sóc, giúp đỡ mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã thể hiện đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/3/2020, Phan Thanh L, Nguyễn Thế Phúc Th và Nguyễn Lê Trọng Ngh đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,4826 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo tình tiết định khung quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điều luật có khung hình phạt tù từ một năm đến năm năm.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, là nguyên nhân gây nên các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an địa phương và tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân, cần xử phạt nghiêm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ“Thành khẩn khai báo”quy định tại Điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Xét nhân thân, vai trò và mức độ tham gia tội phạm của từng bị cáo thấy rằng: Trong vụ án này, các bị cáo cùng bàn bạc thống nhất mua ma túy về sử dụng, trong đó bị cáo Phan Thanh L giữ vai trò cao nhất, bị cáo là người khởi xướng, trực tiếp liên lạc, giao dịch việc mua ma túy, vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án cao nhất. Các bị cáo Nguyễn Thế Phúc Th và Nguyễn Lê Trọng Ngh có vai trò đồng phạm thấp hơn, cần xem xét áp dụng mức hình phạt thấp hơn. Các bị cáo Phan Thanh L và Nguyễn Lê Trọng Ngh gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo L và Ngh có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò đồng phạm đơn giản thứ yếu, có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, vì vậy xem xét cho các bị cáo L, Ngh được áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng răn đe và giáo dục. Đối với bị cáo Nguyễn Thế Phúc Th có nhân thân xấu nên cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Ban hành quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Thế Phúc Th thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

[5] Về vật chứng và tài sản tạm giữ:

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám, màn hình cảm ứng, có số thuê bao: 0962.857.777, số IMEI: 353964100474709 của Phan Thanh L không liên quan đến tội phạm trả lại cho Phan Thanh L.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, mặt kính sau có nhiều vết rạn nứt, có số thuê bao 0865.433.074, số IMEI: 359407081764445 của Nguyễn Thế Phúc Th; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0363.799.599, số IMEI: 353106103306849 của Nguyễn Lê Trọng Ngh không liên quan đến tội phạm trả lại cho Nguyễn Thế Phúc Th và Nguyễn Lê Trọng Ngh.

- Tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.000.000 đồng của Nguyễn Thế Phúc Th và 1.000.000 đồng của Nguyễn Lê Trọng Ngh là tài sản của các bị cáo không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho các bị cáo nhưng tạm giữ của mỗi bị cáo số tiền 200.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Số tiền 1.000 đồng các bị cáo sử dụng làm công cụ sử dụng ma túy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước - Số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3057903 là vật cấm lưu hành và 01 võ chai nhựa màu trắng cao 18cm, đường kính 05cm, miệng rộng 02cm, phần thân chai có 01 lỗ tròn không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0705.159.999, số IMEI: 354869095257325, đã qua sử dụng (điện thoại của Nguyễn Lê Trọng Ngh, sim của Phan Thanh L) đã sử dụng vào việc liên lạc mua ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Thanh L, tên gọi khác: Chó em, Nguyễn Thế Phúc Th, Nguyễn Lê Trọng Ngh, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Phan Thanh L 18 (mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án.

- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Thế Phúc Th 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/3/2020.

- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Lê Trọng Ngh 16 (mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 32 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phan Thanh L cho Ủy ban nhân dân Phường 3, thị xã Quảng Trị tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân Phường 3, thị xã Quảng Trị tỉnh Quảng Trị trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Giao bị cáo Nguyễn Lê Trọng Ngh cho Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Đông Hà tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Đông Hà tỉnh Quảng trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Trả lại cho Phan Thanh L 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám, màn hình cảm ứng, có số thuê bao: 0962.857.777, số IMEI: 353964100474709.

- Trả lại cho Nguyễn Thế Phúc Thịnh 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, mặt kính sau có nhiều vết rạn nứt, có số thuê bao 0865.433.074, số IMEI: 359407081764445.

- Trả lại cho Nguyễn Lê Trọng Ngh 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0363.799.599, số IMEI: 353106103306849.

- Trả lại cho Nguyễn Thế Phúc Th số tiền 1.000.000 đồng và Nguyễn Lê Trọng Ngh số tiền 1.000.000 đồng nhưng tạm giữ của mỗi bị cáo số tiền 200.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.000 đồng các bị cáo sử dụng làm công cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu và tiêu hủy số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3057903 và 01 võ chai nhựa màu trắng cao 18cm, đường kính 05cm, miệng rộng 02cm, phần thân chai có 01 lỗ tròn.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0705.159.999, số IMEI: 354869095257325.

Vật chứng và tài sản tạm giữ hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí, xử: Buộc các bị cáo Phan Thanh L, Nguyễn Thế Phúc Th và Nguyễn Lê Trọng Ngh mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 60/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;