TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 57/2017/HSST NGÀY 12/12/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 12 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2017/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2017/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Bá L1, sinh năm 1993 tại Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm Z, xã Y, huyện X, tỉnh Nghệ An; chỗ ở hiện nay: ấp V, xã U, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá L3 (đã chết) và bà Đậu Thị T; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
- Người bị hại: Ông Phạm Quốc T, sinh năm 1982; nơi cư trú: ấp S, xã R, huyện B, tỉnh Bình Dương (đã chết).
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm1962; nơi cư trú: ấp S, xã R, huyện B, tỉnh Bình Dương (là mẹ của người bị hại Phạm Quốc T), có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị C: Ông Phạm Trung H, sinh năm 1988; nơi cư trú: ấp S, xã R, huyện B, tỉnh Bình Dương (văn bản ủy quyền ngày 27/6/2017), có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Bá L2, sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm Z, xã Y, huyện X, tỉnh Nghệ An; chỗ ở hiện nay: cư xá Công ty Q, khu công nghiệp P, xã O, huyện N, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt (có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Bá L1 có giấy phép lái xe hạng A1, số F theo quy định của pháp luật. Khoảng 22 giờ ngày 04 tháng 6 năm 2017, tại đoạn đường Quốc lộ 13 thuộc ấp S, xã R, huyện B, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Bá L1 điều khiển xe mô tô biển số K lưu thông ngược chiều trên làn đường xe mô tô hướng đi từ huyện J, tỉnh Bình Phước đến thị xã I, tỉnh Bình Dương, xảy ra va chạm với xe mô tô mang biển số H do Phạm Quốc T điều khiển theo hướng đi từ thị xã I, tỉnh Bình Dương đến huyện J, tỉnh Bình Phước. Tai nạn xảy ra làm Phạm Quốc T ngã xuống đường, bị thương được đưa đi cấp cứu. Ngày 06 tháng 6 năm 2017 Phạm Quốc T tử vong.
Theo Biên bản khám nghiệm hiện trường và Sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày 04 tháng 6 năm 2017 của Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương thể hiện: đoạn đường nơi xảy ra tai nạn giao thông là đoạn đường thẳng, mặt đường được trải nhựa, tầm nhìn lái xe không bị che khuất, chiều rộng mặt đường là 11m00, chia làm 03 làn đường. Làn đường xe mô tô rộng 03m50, làn đường xe ô tô tải rộng 03m70, làn đường xe ô tô con rộng 03m80.
Sau khi xảy ra tai nạn, hiện trường để lại vết cày đứt quãng kết thúc tại ống xả của xe mô tô biển số H dài 01m16, từ điểm đầu vết cày xe mô tô biển số H đo vào lề phải là 04m20. Vết cày đứt quãng của xe mô tô biển số K, kết thúc tại gác chân trước bên phải, chiều dài vết cày là 03m50. Từ điểm đầu vết cày xe mô tô biển số K đo vào lề phải là 06m25. Khoảng cách từ điểm đầu vết cày xe mô tô biển số K đo đến trục sau xe mô tô biển số H là 02m80.
Xe mô tô biển số H, sau khi xảy ra tai nạn xe ngã nghiêng bên phải, đầu xe quay về hướng đi huyện J, tỉnh Bình Phước, xe nằm trên làn đường xe ô tô tải, từ trục trước xe mô tô biển số H đo vào lề phải là 03m65, từ trục sau xe mô tô biển số H đo vào lề phải là 04m00.
Xe mô tô biển số K, sau khi xảy ra tai nạn xe ngã nghiêng bên phải, đầu xe quay về hướng đi thị xã I, tỉnh Bình Dương, xe nằm trên làn đường xe ô tô con, từ trục trước xe mô tô biển số K đo vào lề phải là 09m00. Khoảng cách từ trục sau xe mô tô biển số K đo đến trụ điện số 111 là 13m20 làm chuẩn.
Hiện trường để lại vết máu của nạn nhân nằm trên làn đường xe mô tô, vết máu của nạn nhân dài 01m37, từ vết máu nạn nhân đo vào lề phải là 02m00, từ vết máu đến nạn nhân đo đến trục sau xe mô tô biển số H là 01m70.
Trụ điện số 111 làm điểm mốc, từ trụ điện số 111 đo vào lề phải là 04m20. Khoảng cách từ trụ điện số 111 đo đến trục sau xe mô tô biển số H là 08m40 làm chuẩn.
Theo Biên bản khám nghiệm xe mô tô biển số H ngày 04 tháng 6 năm 2017 của Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương thể hiện:
Dấu vết xe mô tô biển số H va chạm với xe mô tô biển số K để lại: vỡ toàn bộ đèn chiếu sáng phía trước, từ vị trí va chạm đo xuống mặt đường là 01m00; vỡ toàn bộ đèn xi nhan phía trước bên trái, bên phải. Từ vị trí va chạm đo xuống mặt đường là 01m00; vỡ nhíp ốp phuộc bên trái, từ vị trí va chạm đo xuống mặt đường là 00m65; cong phuộc trước bên trái về sau, từ vị trí va chạm đo xuống mặt đường là 00m65; vỡ toàn bộ cánh bững bên trái; cong cần số về sau; cong gác chân trước bên trái về sau.
Dấu vết xe mô tô biển số H va chạm với mặt đường để lại: sây sát đầu tay cầm bên trái; sây sát gác chân trước bên phải; sây sát mặt ống xả; sây sát ba ga sau bên phải.
Ghi nhận an toàn kỹ thuật của phương tiện: hệ thống lái bị hỏng; hệ thống đèn bị hỏng; hệ thống thắng bị hỏng.
Theo Biên bản khám nghiệm xe mô tô biển số K ngày 04 tháng 6 năm 2017 của Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương thể hiện:
Dấu vết xe mô tô biển số K va chạm với xe mô tô biển số H để lại: vỡ toàn bộ đèn chiếu sán phía trước, từ vị trí va chạm đo xuống mặt đường là 01m00; vỡ nhựa mặt nạ trước, từ vị trí va chạm đo xuống mặt đường là 00m85; vỡ nhựa cánh bững bên trái; vỡ nhựa ốp phuộc bên trái, từ vị trí va chạm đo xuống mặt đường là 00m65; cong gác chân trước bên trái về sau.
Dấu vết xe mô tô biển số K va chạm với mặt đường để lại: sây sát đầu tay cầm bên phải; sây sát gác chân trước bên phải; sây sát gác chân sau bên phải; sây sát ba ga sau bên phải.
Ghi nhận an toàn kỹ thuật của phương tiện: hệ thống lái bị hỏng; hệ thống đèn bị hỏng; hệ thống thắng bị hỏng. Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) xe mô tô biển số K; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số G; 01 (một) giấy phép lái xe số F; 01 (một) xe mô tô biển số H.
Ngày 06 tháng 6 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương ra Quyết định trưng cầu giám định số: 59/QĐ-CQĐT- ĐTTH trưng cầu Bác sĩ pháp y Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương giám định nguyên nhân tử vong của người bị hại Phạm Quốc T.
Theo Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 452/GĐPY ngày 07 tháng 6 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Phạm Quốc T nhiều vết sây sát, rách da, bầm tụ máu trên cơ thể nạn nhân; gãy hai xương cẳng chân trái; bể lún xương hộp sọ diện rộng, dập não. Nguyên nhân chết của Phạm Quốc T là do đa chấn thương, chấn thương sọ não (bể xương hộp sọ, dập não).
Quá trình điều tra người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 175.000.000 đồng bao gồm tiền chi phí điều trị thương tích, chi phí mai táng và chi phí phát sinh khác. Bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình người bị hại số tiền 50.000.000 đồng. Số tiền còn lại, bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông, biên bản khám nghiệm xe mô tô biển số H, biên bản khám nghiệm xe mô tô biển số K ngày 04 tháng 6 năm 2017 của Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương và kết luận giám định pháp y tử thi của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương.
Tại bản Cáo trạng số: 42/QĐ-KSĐT ngày 18 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Bá L1 về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố và xác định sau khi phạm tội bị cáo tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình người bị hại, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, người đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại các
điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 202, các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Bá L1 mức hình phạt từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình người bị hại với số tiền 50.000.000 đồng. Số tiền còn lại 125.000.000 đồng bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại yều cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về xử lý vật chứng:
Ngày 04 tháng 8 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử lý vật chứng trả cho: Phạm Trung H là người đại diện hợp pháp của chủ sở hữu 01 (một) xe mô tô biển số H; Nguyễn Bá L2 01 (một) xe mô tô biển số K; bị cáo Nguyễn Bá L1 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số G mang tên Nguyễn Bá L1.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của người bị hại thay đổi mức yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với bị cáo. Người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 75.000.000 đồng chi phí điều trị thương tích và chi phí mai táng. Bị cáo đồng ý bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 75.000.000 đồng chi phí điều trị thương tích và chi phí mai táng.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Bá L1 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận giám định pháp y về tử thi cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 22 giờ ngày 04 tháng 6 năm 2017, tại đoạn đường Quốc lộ 13 thuộc ấp S, xã R, huyện B, tỉnh Bình Dương. Bị cáo Nguyễn Bá L1 điều khiển xe mô tô biển số K lưu thông ngược chiều trên làn đường xe mô tô hướng đi từ huyện J, tỉnh Bình Phước đến thị xã I, tỉnh Bình Dương nên xảy ra va chạm với xe mô tô mang biển số H do Phạm Quốc T điều khiển theo hướng đi từ thị xã I, tỉnh Bình Dương đến huyện J, tỉnh Bình Phước. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ. Bị cáo đã gây ra hậu quả nghiêm trọng làm người bị hại Phạm Quốc T tử vong; bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo theo quy định của pháp luật. Theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”. Như vậy, hành vi của bị cáo điều khiển xe mô tô biển số K vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng của người bị hại Phạm Quốc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo theo tội danh và điều, khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng của người bị hại. Với tình hình tai nạn giao thông xảy ra ngày càng gia tăng như hiện nay, là do ý thức không chấp hành Luật Giao thông đường bộ của người tham gia giao thông mà phần lớn là lỗi của người điều khiển phương tiện vi phạm Luật Giao thông đường bộ dẫn đến gây tai nạn cho người khác. Hậu quả của những hành vi này là gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Trong vụ án này, chỉ vì cẩu thả trong việc điều khiển phương tiện tham gia giao thông mà bị cáo đã gây tai nạn cho người bị hại với hậu quả là người bị hại tử vong. Do đó, đối với hành vi của bị cáo cần phải xử lý thật nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Đồng thời, cũng nhằm răn đe những người tham gia giao thông nhưng không tuân thủ Luật Giao thông đường bộ, xem thường sức khỏe, tính mạng của người khác. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân cho bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình người bị hại nên thuộc trường hợp người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; người đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.
Mức hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 75.000.000 đồng và bị cáo đồng ý bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 75.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[6] Về xử lý vật chứng: ngày 04 tháng 8 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử lý vật chứng trả cho: Phạm Trung H là người đại diện hợp pháp của chủ sở hữu 01 (một) xe mô tô biển số H; Nguyễn Bá L2 01 (một) xe mô tô biển số K; Nguyễn Bá L1 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số G mang tên Nguyễn Bá L1 là phù hợp quy định của pháp luật.
Đối với giấy phép lái xe số F mang tên Nguyễn Bá L1 là của bị cáo Nguyễn Bá L1 nên cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Bá L1 theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 42, các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ vào các Điều 76 và 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 468 và Điều 591 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào các Điều 23, 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá L1 phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá L1 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
Về xử lý vật chứng: trả cho bị cáo Nguyễn Bá L1 01 (một) giấy phép lái xe số F mang tên Nguyễn Bá L1.
Thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày tháng năm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương
Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo Nguyễn Bá L1 phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị C số tiền 75.000.000 đồng (bảy mươi lăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về án phí: buộc bị cáo phải chịu phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 3.750.000 đồng (ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tòa tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 57/2017/HSST ngày 12/12/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 57/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về