Bản án 56/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2021/HSST ngày 07 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo: Phạm Đức L, sinh ngày 01/10/2002.Nơi sinh: tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: thôn M, xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn K và bà Bùi Thị Ng; vợ, con : Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/01/2021 đến ngày 08/01/2021 chuyển tạm giam cho đến nay.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Bá T, sinh năm 2000. Nơi cư trú: Thôn H, xã B, huyện H, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

1. Ông Đào Quang H, sinh năm 1959.

Nơi cư trú: Số nhà 18/9, tổ 11-12, phường P, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

2. Ông Nguyễn Đắc N, sinh năm 1966.

Nơi cư trú: Số nhà 09, tổ 09, phường P, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo, vắng mặt anh T, ông H, ông N).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 05/01/2021 Nguyễn Bá T điều khiển xe máy nhãn hiệu Hon da - Winner màu cam đen đến nhà Phạm Đức L chơi, L nói với T: “Anh chở em lên thành phố Thái Bình em có chút việc riêng”, T đồng ý. Dưới sự hướng dẫn của Phạm Đức L, T điều khiển xe máy đến khu vực ngã tư đường Đ- T, thuộc tổ 07, phường P, thành phố B thì L nói với T dừng xe đứng chờ. L vào một ngõ nhỏ gặp một nam giới khoảng 23 tuổi không biết tên tuổi, địa chỉ hỏi mua 300.000 đồng được 01 gói ma túy đá rồi đi đến chỗ T để T chở về nhà. Khi T và L đi trên đường L, thuộc tổ 21 - 22, phường P, thành phố B thì gặp tổ công tác của Công an phường Tiền Phong và đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Bình, tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra đối với Phạm Đức L và Nguyễn Bá T. Trước sự chứng kiến của ông Đào Quang H và ông Nguyễn Văn N, L đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon L khai nhận là ma túy đá L mua để sử dụng cho bản thân, tổ công tác niêm phong vào một phong bì dán kín, trên mép dán có chữ ký của L, T và những người chứng kiến. Tổ công tác kiểm tra người Phạm Đức L thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen và 1.100.000 đồng, kiểm tra người Nguyễn Bá T và xe máy không thu giữ gì.

Bản kết luận giám định số 04/KLGĐMT- PC09 ngày 06/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,3222 gam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 52/CT-VKSTPTB ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/01/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Methamphetamine còn lại sau giám định là 0,2385 gam; trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen và 1.100.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo không bào chữa, không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

- Biên bản niêm phong vật chứng.

- Kết luận giám định số 04/KLGĐMT- PC09 ngày 06/01/2021.

- Biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến.

Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 15 phút, ngày 05/01/2021 tại khu vực đường L, thuộc tổ 21 - 22, phường P, thành phố B, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của Công an phường Tiền Phong và Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Phạm Đức L tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3222 gam mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự là người có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năm hối cải, tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ lượng ma túy ít, để sử dụng, không nhằm mục đích kiếm lời, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với bị cáo có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Số Heroine còn lại sau giám định là 0,2385 gam thu giữ của bị cáo, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen và số tiền 1.100.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án.

- Chấp nhân việc cơ quan Điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon da - Winner, màu cam đen, biển số 59 N1 – 21302 cho anh Phạm Bá T.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: Tài liệu điều tra xác định bị cáo mua của người nam giới khoảng 23 tuổi không biết tên và địa chỉ tại khu vực ngã tư đường Đ - T, thuộc tổ 07, phường P, thành phố B nên cơ quan Điều tra không có căn cứ xử lý.

Đối với Nguyễn Bá T điều khiển xe máy chở Phạm Đức L lên khu vực ngã tư đường Đ - T, thuộc tổ 07, phường P, thành phố B. Do L không nói mục đích đi mua ma túy, T không biết việc L mua ma túy nên cơ quan Điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình không có hình thức xử lý.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Đức L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Đức L 01 (một) năm 01 (một) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/01/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định là 0,2385 gam trong phong bì niêm phong số 04/KLGĐMT- PC09 ngày 06/01/2021.

- Trả cho bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen và số tiền 1.100.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 07/04/2021).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/4/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 56/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:56/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;