Bản án 56/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương S, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1994, tại tỉnh Bắc Giang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn H, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa : Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương H và bà Trần T; có vợ là Phương N và 01 con sinh năm 2015; tiền án: Ngày 12/04/2019 bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xử 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tiền sự: Không; Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Hoàng Tiến, tỉnh Hải Dương từ ngày 19/3/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương S và Bùi B cùng làm công nhân tại khu công nghiệp My Điền, huyện V, tỉnh Bắc Giang nên có quen biết nhau. Ngày 29/12/2017, B nói chuyện với S về việc B có mối bán pháo ở khu công nghiệp My Điền đồng thời biết chỗ mua pháo nên B rủ S đi lên chợ Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn mua pháo và được S đồng ý.

Khoảng 07 giờ ngày 31/12/2017, S gọi điện thoại cho B đến đón S ở ngã tư thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, với mục đích đi lên chợ Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn (chợ Tân Thanh) chơi và mua pháo về để bán kiếm lời. B một mình điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 22B1-599.00 (xe của Trần P, chồng B) đi từ khu công nghiệp My Điền, huyện V, tỉnh Bắc Giang đến đón S. S đã đưa khoảng 4.000.000đồng (không nhớ chính xác) cho B cầm hộ. B điều khiển xe mô tô chở S đi theo quốc lộ 279 ra quốc lộ 1A để đi lên chợ Tân Thanh. Đến trưa cùng ngày S và B đến chợ Tân Thanh. Tại chợ Tân Thanh, S và B gặp hai người phụ nữ (không rõ lai lịch) giới thiệu có pháo loại 36 quả/giàn, bán giá 250.000đồng/giàn, rồi đưa S và B đến một căn nhà (không rõ địa chỉ) cách chợ Tân Thanh khoảng 500m xem pháo. S và B thống nhất mua pháo của hai người phụ nữ này 36 giàn với giá 9.000.000đồng (chín triệu đồng). S bảo B trả tiền cho hai người phụ nữ (trong đó có khoảng 4.000.000đồng là tiền của S). Mua pháo xong, S buộc toàn bộ số pháo lên phía sau yên xe mô tô 22B1-599.00, rồi điều khiển xe mô tô chở B ngồi phía trước cùng toàn bộ số pháo đi theo quốc lộ 1A để về Bắc Giang. Hồi 20 giờ 30 phút cùng ngày khi đi đến km 43 quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Lạng Giai B, xã Nhân Lý, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, thì bị Tổ công tác Công an huyện Chi Lăng ra tín hiệu dừng xe, S không chấp hành mệnh lệnh, tiếp tục điều khiển xe mô tô chở B và số pháo bỏ chạy vào tỉnh lộ 250, Tổ công tác đã truy đuổi khi đến địa phận thôn Khun Áng, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn (20 giờ 42 phút) thì đuổi kịp, thu giữ tang vật là 52 kilôgam pháo nổ.

Tại Kết luận giám định số 179/C54-P2 ngày 19/01/2018 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Lương S và Bùi B) gửi giám định bên trong có chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra tiếng nổ.

Sau khi Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Chi Lăng khởi tố vụ án, khởi tố bị can Lương S và Bùi B đã bỏ trốn. Đến ngày 19/3/2019 Lương S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện L, tỉnh Bắc Giang bắt theo Quyết định truy nã số 03/QĐ ngày 19/01/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện L, tỉnh Bắc Giang về tội Trộm cắp tài sản. Bùi B đến nay chưa bắt được, hiện đang bị truy nã theo Quyết định truy nã bị can số 01, ngày 27/5/2019, của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.

Với nội dung vụ án như trên, tại Cáo trạng số 55/CT-VKSCL ngày 15/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Lương S về tội Buôn bán hàng cấm, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương S thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, trong lời luận tội đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 155; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20, Điều 33, Điều 45, Điều 51, Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999, tuyên bố bị cáo Lương S phạm tội Buôn bán hàng cấm, xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù và tổng hợp với bản án số 24/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu sung ngân sách 01 điện thoại Nokia Lumia Black.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; trong lời nói sau cùng bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng bị thu giữ, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 20 giờ 42 phút ngày 31/12/2017 tại tỉnh lộ 250 thuộc địa phận thôn Khun Áng, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Công an huyện Chi Lăng phát hiện bắt qủa tang Lương S có hành vi vận chuyển 52 kilôgam pháo nổ, mục đích vận chuyển pháo nổ về Bắc Giang để bán kiếm lời. Pháo nổ là mặt hàng nhà nước cấm kinh doanh, khi thực hiện hành vi trên bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Buôn bán hàng cấm, được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được việc buôn bán pháo nổ là hành vi bị Nhà nước nghiêm cấm, có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người khác nhưng vì hám lợi muốn có tiền một cách nhanh chóng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, hành vi phạm tội của bị cáo gây mất an ninh trật tự tại địa phương, do đó cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu trong một thời gian ngắn bị cáo liên tiếp thực hiện 02 hành vi phạm tội, ngày 12/04/2019 bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xử 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, hành vi buôn bán hàng cấm của bị cáo thực hiện vào ngày 31/12/2017 nên lần xét xử này không bị coi là “tái phạm”, nhưng khi quyết định hình phạt cần áp dụng khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 1999, để tổng hợp với hình phạt tại bản án số 24/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Đây là vụ án có đồng phạm nhưng được tổ chức dưới hình thức đồng phạm giản đơn. Trong đó bị cáo Lương S có vai trò là người thực hành tích cực, trực tiếp góp tiền và tham gia vào việc mua bán, vận chuyển pháo. Khi bị Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra đã không chấp hành hiệu lệnh mà điều khiển xe bỏ chạy nhằm trốn tránh trách nhiệm trước pháp luật.

[7] Xét thấy việc đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 đến 04 năm tù của đại diện Viện kiểm sát là thấp. Vì, bị cáo Lương S là người có nhân thân xấu trong một thời gian ngắn bị cáo liên tiếp thực hiện 02 hành vi phạm tội (ngày 02/12/2017 và ngày 31/12/2017). Trong vụ án này bị cáo là người thực hành tích cực, khi bị phát hiện bị cáo chống đối điều khiển xe mô tô bỏ chạy, sau khi bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, khởi tố bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng một mức án nghiêm khắc hơn để cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, đồng thời đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lí vật chứng: Đối với 01 điện thoại Nokia Lumia Black, màu đen xanh, là công cụ, phương tiện phạm tội, do đó căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Xác nhận ngày 08/01/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng đã tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ còn lại sau giám định và 02 thùng bìa carton.

[10] Đối với xe mô tô 22B1-599.00, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh thư nhân dân; 01 điện thoại Iphone và số tiền 10.000.000 đồng, Cơ quan điều tra đã tách ra để xử lý trong vụ án khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11] Đối với Bùi B hiện đang bị truy nã khi nào bắt được sẽ xử lý bằng một vụ án khác. Đối với hai người phụ nữ đã bán pháo cho Lương S và Bùi B, không rõ lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

[12] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 155; Điều 20; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 51; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương S phạm tội Buôn bán hàng cấm.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lương S 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 09 (chín) tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản tại bản án số 24/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 05 (năm) năm 03 (ba) tháng. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/3/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng đã tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ còn lại sau giám định và 02 thùng bìa carton.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia Lumia Black, màu đen xanh (đã qua sử dụng).

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16 tháng 7 năm 2019)

4. Về án phí: Bị cáo Lương S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;