Bản án 55/2018/HS-ST ngày 21/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 55/2018/HS-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2018/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Đỗ Văn Q, sinh ngày 16 tháng 3 năm 1999. Nơi sinh, nơi cư trú: Xóm 15, xã HH, huyện HH, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Sự, sinh năm 1979 và Phạm Thị Mỳ, sinh năm 1981; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 09-7-2015 bị Công an phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 16-12-2016 bị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 13-10-2017; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16-6-2018 đến ngày 22-6-2018 chuyển tạm giam cho đến nay “có mặt”.

- Bị hại:

1. Anh Lê Văn Đ, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xóm 5, xã HS, huyện HH Hậu, tỉnh Nam Định “vắng mặt”.

2. Chị Bì Thị H, sinh năm 1999; nơi cư trú: Tổ dân phố số 20, thị trấn TL, huyện HH, tỉnh Nam Định “vắng mặt”

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Hồng S, sinh năm 1960; nơi cư trú: Khu 8, xã NP, huyện NH, tỉnh Nam Định “có mặt”

2. Chị Nguyễn Thị Thùy H1, sinh năm 1992; nơi cư trú: Xóm 10, xã HS, huyện HH, tỉnh Nam Định “có mặt”

3. Anh Bùi Đức S1, sinh năm 1996; nơi cư trú: Xóm 7, xã HS, huyện HH, tỉnh Nam Định “vắng mặt”

4. Chị Phạm Thị M, sinh năm 1981; nơi cư trú: Xóm 1, xã HL, huyện Hải HH, tỉnh Nam Định “vắng mặt”

5. Anh Phan Văn K, sinh ngày 15/5/2000; nơi cư trú: Xóm 2, xã Nghĩa NP, huyện NH, tỉnh Nam Định “vắng mặt”

6. Anh Vũ Văn L, sinh năm 1998; nơi cư trú: Xóm Đông Mỹ, xã NL, huyện NH, tỉnh Nam Định “có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 11-6-2018, Đỗ Văn Q đến quán Internet của chị Nguyễn Thị Thùy H1 chơi điện tử. Khi đi qua khu vực lán để xe, Q phát hiện chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 18H1-277.50 của anh Lê Văn Đ không có người trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp. Q dắt xe ra đường, đến một cửa hàng sửa chữa xe máy đề nghị thay khóa mới, với lý do bị mất chìa khóa, sau đó điều khiển xe đến huyện Nghĩa Hưng chơi điện tử. Khoảng 11 giờ ngày 12-6-2018, Q đem chiếc xe môtô trên đến cửa hàng mua bán xe máy của ông Nguyễn Hồng S, nói xe của Q và lấy giấy tờ xe mà anh Đ để trong cốp xe đưa cho ông S. Ông S không biết chiếc xe do trộm cắp mà có nên mua với giá 8.000.000đ. Sau khi phạm tội, Đỗ Văn Q bỏ trốn khỏi địa pH1 đến ngày 16-6-2018, Q đến Công an huyện Hải Hậu đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐG ngày 15-6-2018 của Hội đồng định giá huyện Hải Hậu kết luận: Chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 18H1-227.50 có giá trị 9.500.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ ngày 12-6-2018, Đỗ Văn Q đến quán Karaoke “Ngọc Phượng” thuộc khu du lịch thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu thuê phòng hát. Lợi dụng lúc chị Bì Thị H là nhân viên phục vụ tại quán đang chọn bài hát, để chiếc điện thoại di động Iphone 6 plus vỏ màu vàng trên ghế ở phía sau lưng, Q lấy chiếc điện thoại giấu vào trong người rồi ra về. Ngày 16-6-2018, Q đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại trên cho Cơ quan điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐG ngày 11-7-2018 của Hội đồng định giá huyện Hải Hậu kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus có trị giá: 4.000.000đ.

Cáo trạng số 55/CT-VKSHH ngày 31 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu truy tố Đỗ Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo đã thành khẩn khai nhận đã thực hiện hình vi như nội dung vụ án đã nêu.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyên Hai Hâu giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16-6-2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng tỏ thái độ ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm có cơ hội hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Văn Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, lời khai người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 11-6-2018, lợi dụng sơ hở của anh Lê Văn Đ ở xóm 10, xã Hải Sơn, huyện Hải Hậu, Đỗ Văn Q đã trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 18H1- 227.50 trị giá 9.5000.000đ. Ngoài ra, khoảng 13 giờ ngày 12-6-2018, tại quán hát ”Ngọc Phượng” tại khu du lịch thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu, lợi dụng sơ hở của chị Bì Thị H, Đỗ Văn Q đã trộm cắp chiếc điện thoại di động Iphone 6 Plus trị giá 4.000.000đ. Tổng giá trị tài sản mà Q đã trộm cắp được là 13.500.000đ. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 như Cáo trạng của Viện K iểm sát nhân dân huyên Hai Hâu đa truy tố đôi vơi bị cáo là có căn cứ.

 [3] Xét hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội vì không những xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi do mình thực hiện và đủ khả năng điều khiển hành vi của mình.

 [4] Về nhân thân: Khi bị cáo chưa đủ 18 tuổi đã bị Công an phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, bị cáo là người có nhân thân xấu.

 [5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này, bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Sau khi bị Cơ quan điều tra ra lệnh truy nã, bị cáo đã ra đầu thú tại Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu và đã tác động tích cực cho gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích nêu trên, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm trừng trị, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà hôm nay là phù hợp.

 [7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo có thể bị phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo, hiện bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, còn sống phụ thuộc vào gia đình. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

 [8] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho người bị hại anh Lê Văn Đ và chị Bì Thị H. Sau khi nhận lại tài sản, anh Đ, chị H không có yêu cầu gì khác. Quá trình điều tra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường số tiền 8.000.000 đồng cho ông Nguyễn Hồng S, sau khi nhận số tiền trên, ông S không đề nghị gì nên về trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

 [9] Đối với hành vi Đỗ Văn Q trộm cắp chiếc điện thoại di động Samsung J2 Prime trị giá 1.500.000đ của anh Nguyễn Văn Nho ở Tổ dân phố số 20, thị trấn Thịnh Long. Xét thấy hành vi không cấu thành tội phạm nên cơ quan Công an đã xử lý hành chính đối với bị cáo là phù hợp.

 [10] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động Samsung J2 Prime vỏ màu nâu; 01 điện thoại di động Iphone 4; 01 điện thoại di động Nokia 1110i; 01 ví giả da màu nâu mà cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của Đỗ Văn Q, xét thấy số tài sản trên không liên quan đến việc phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả số tài sản trên cho bà Phạm Thị Mỳ là mẹ đẻ bị cáo quản lý là phù hợp.

 [11] Đối với ông Nguyễn Hồng S mua xe của Q nhưng không biết đây là tài sản do Q phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

 [12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, tuyên bố bị cáo Đỗ Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt Đỗ Văn Q 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16-6-2018.

2. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Đỗ Văn Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2018/HS-ST ngày 21/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:55/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;