TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH T
BẢN ÁN 54/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ TH VÀ ANH T2
Ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/TB-TLVA ngày 02 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Thôn Đ, TG, huyện T1, tỉnh T (chị Th vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Trung T2, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Thôn Đ, TG, huyện T1, tỉnh T (anh T2 vắng mặt lần thứ hai không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lê Thị Th trình bày:
Chị và anh Nguyễn Trung T2, sinh năm 1984, có địa chỉ tại thôn Đ, TG, huyện T1, tỉnh T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 16/9/2005 được Uỷ ban nhân dân xã XG, huyện BT, tỉnh L chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống và làm việc tại tỉnh L đến năm 2008 thì chuyển về T1 sinh sống và làm việc. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm cuối 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T2 có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Chị đã chuyển ra bên ngoài sinh sống. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T2.
Về con chung, theo chị Th, chị và anh T2 có 01 con chung là Nguyễn Thành Đ1, sinh ngày 06/8/2011. Hiện nay, con Đ1 đang ở với chị. Ly hôn chị có nguyện vọng xin được nuôi con Đ1, chị không yêu cầu anh T2 phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản chung và nợ chung, chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi cho anh Nguyễn Trung T2 thông báo thụ lý, thông báo đến phiên công khai chứng cứ và hòa giải tuy nhiên anh T2 không đến Tòa án.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/7/2020 tại gia đình ông Nguyễn Chiến Th1, sinh năm 1954, trú tại thôn Đ, xã TG, huyện T1, tỉnh T (ông Th1 là bố đẻ anh Nguyễn Trung T2) ông Th1 trình bày:
Ông là bố đẻ của anh Nguyễn Trung T2. Theo ông Th1, anh T2 và chị Th tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau năm 2005 được Uỷ ban nhân dân xã XG, huyện BT, tỉnh L chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống và làm việc tại tỉnh Lào Cai đến năm 2008 thì chuyển về T1 sinh sống và làm việc. Sau này anh chị mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T2 có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Nay chị Th có đơn xin ly hôn anh T2, gia đình và anh T2 có biết. Quan điểm của anh T2 và gia đình là mong muốn anh T2 và chị Th đoàn tụ để nuôi dạy con cái. Tuy nhiên, nếu chị Th kiên quyết ly hôn thì gia đình không có ý kiến gì.
Về con chung, anh T2 và chị Th có có 01 con chung là Nguyễn Thành Đ1, sinh ngày 06/8/2011. Hiện nay, con Đ1 đang ở với chị Th. Nếu chị Th kiên quyết ly hôn thì gia đình cũng không có ý kiến và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung, nợ chung, theo ông Th1 trong quá trình chung sống gia đình không thấy anh T2, chị Th có tài sản chung gì. Về nợ chung của anh chị gia đình không nắm rõ.
Ông Th1 đã nhận thông báo thụ lý, thông báo đến phiên hòa giải và cam kết giao lại cho anh T2. Theo ông Th1, bản thân anh T2 đã biết việc chị Th xin ly hôn song vì bận công việc, không đến Tòa án được, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Biên bản lấy lời khai có chữ ký của ông Th1, xác nhận của Công an viên và Trưởng Công an xã TG, huyện T1, tỉnh T.
Tại biên bản xác minh ngày 28 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở UBND xã TG, huyện T1, tỉnh T, ông Tô Văn H, Phó Chủ tịch UBND và ông Đặng Kim L, Cán bộ Tư pháp UBND xã TG có ý kiến như sau:
Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trung T2 tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn năm 2005 được Uỷ ban nhân dân xã XG, huyện BT, tỉnh L chứng nhận kết hôn. Năm 2008 anh chị chuyển về địa phương sinh sống. Việc anh chị mâu thuẫn như thế nào địa phương không được biết. Nếu chị Th xin ly hôn anh T2, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về con chung, anh T2 và chị Th có 01 con chung là Nguyễn Thành Đ1, sinh ngày 06/8/2011. Hiện nay, con Đ1 đang ở với chị Th. Nếu anh chị ly hôn, về con chung quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Anh T2, chị Th có tài sản chung, nợ chung hay không địa phương không nắm được. Anh Nguyễn Trung T2 có hộ khẩu thường trú và vẫn sinh sống tại địa phương.
Ngày 26 tháng 8 năm 2020, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, chị Th có mặt, anh T2 không đến phiên tòa, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại vào ngày 09/9/2020.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh T phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn.
Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Lê Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Trung T2. Về con chung, giao con chung cho chị Th được trực tiếp nuôi dưỡng, anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th; anh T2 có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Lê Thị Th vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Nguyễn Trung T2 vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Th và anh T2.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
[2.1] Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trung T2 kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Th cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh T2 có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc.
[2.2] Chị Thcó đơn xin ly hôn, Tòa án đã ra thông báo thụ lý, thông báo đến tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, anh T2không đến Tòa án. Qua gia đình, anh T2 thể hiện mong muốn gia đình đoàn tụ, song nếu chị Th kiên quyết ly hôn, anh T2 cũng đồng ý. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị Thvà anh T2 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ1 được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Lê Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Trung T2.
[3] Về con chung: Anh T2 và chị Th có 01 con chung là Nguyễn Thành Đ1, sinh ngày 06/8/2011. Hiện nay, con Đ1 đang ở với chị Th. Do chị Th đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, có đủ điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, để đảm bảo cho con chung có các điều kiện phát triển tốt nhất, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho chị Th được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thành Đ1 (cháu Đ1 có nguyện vọng được ở với mẹ), anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th. Anh T2 có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
[4] Về tài sản chung: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Lê Thị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Xử cho chị Lê Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Trung T2.
2. Về con chung:
Giao cho chị Lê Thị Th được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thành Đ1, sinh ngày 06/8/2011. Anh Nguyễn Trung T2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th. Anh T2 có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
3. Về tài sản chung:
Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí:
Nguyên đơn là chị Lê Thị Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm; đối trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị Th đã nộp theo Biên lai số 0009601 ngày 02/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh T. Chị Lê Thị Th đã nộp đủ án phí.
5. Quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống Đ1 hợp lệ bản án./.
Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị Th và anh T2
Số hiệu: | 54/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về