TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 22/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ C VÀ ANH V
Ngày 03 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 59/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2019/QĐST-HNGĐ, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Mai C, sinh năm 1993.
Hộ khẩu thường trú: Số nhà XY, phố CR, xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở hiện nay: Thôn Tr, xã QT, huyện TN, TP. H (vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Trần Quang V, sinh năm 1990. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Số nhà XY, phố CR, xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vũ Thị Mai C trình bày:
Chị và anh Trần Quang V, sinh năm 1990, có hộ khẩu thường trú: Số nhà XY, phố CR, xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 17/5/2017 được Uỷ ban nhân dân xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chuyển về chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng khác biệt về quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, anh V hay cờ bạc và bỏ nhà đi. Anh chị sống ly thân từ tháng 9 năm 2018 đến nay. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Quang V.
Về con chung, chị C xác định chị và anh Trần Quang V có 01 con chung là Trần Vũ MA, sinh ngày 26/8/2017, hiện nay cháu MA đang ở với mẹ. Khi ly hôn, chị C đề nghị Tòa án giao chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Vũ MA và chị yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản chung, chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai đề ngày 26/3/2019, anh Trần Quang V trình bày: Anh không đồng ý ly hôn vì xét thấy tình cảm vẫn còn, anh muốn vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái.
Ngày 11/4/2019, Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tuy nhiên anh Trần Quang V không đến Tòa án.
Tại biên bản xác minh ngày 12/4/2019 tại trụ sở UBND xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình, ông Phạm Văn T, Cán bộ tư pháp xã cho biết:
Anh V và chị C tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 17/5/2017 tại UBND xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng anh chị có 01 con chung là Trần Vũ MA, sinh ngày 26/8/2017. Về tài sản và công nợ của vợ chồng anh V và chị C đại diện địa phương không nắm được cụ thể. Anh Trần Quang V vẫn có mặt tại địa phương, các văn bản tố tụng, giấy báo của Tòa án nhân dân huyện T1 đều được đại diện địa phương giao cho gia đình đương sự và niêm yết tại trụ sở UBND xã theo quy định của pháp luật. Quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Biên bản xác minh có chữ ký, con dấu xác nhận của ông Đặng Văn T2, Phó Chủ tịch UBND xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình.
Tại phiên tòa, anh Trần Quang V trình bày:
Anh và chị Vũ Thị Mai C tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 17/5/2017 được Uỷ ban nhân dân xã PC, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chuyển về chung sống hạnh phúc tại thành phố H đến khoảng tháng 9 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh ham chơi cờ bạc dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn cãi nhau. Đến cuối năm 2018 thì anh chuyển về Thái Bình sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó. Nay chị C xin ly hôn, anh đã gặp gỡ, hòa giải nhưng chị C không đồng ý về đoàn tụ, xét thấy tình cảm không còn, anh đồng ý ly hôn với chị C.
Về con chung, anh V xác định anh và chị C có 01 con chung là Trần Vũ MA, sinh ngày 26/8/2017, hiện nay cháu MA đang ở với mẹ. Ly hôn, anh đồng ý giao con chung cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 02 triệu đồng kể từ tháng 5/2019 đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Vũ Thị Mai C được ly hôn anh Trần Quang V. Về con chung, giao con chung Trần Vũ MA, sinh ngày 26/8/2017 cho chị C được trực tiếp nuôi dưỡng, anh V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 02 triệu đồng kể từ tháng 5/2019; anh V có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Vũ Thị Mai C vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Trần Quang V có mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị C.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Mai C và anh Trần Quang V kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị C cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, anh V hay cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, cuộc sống không hạnh phúc, anh V đã chuyển về Thái Bình sinh sống và làm việc. Chị C có đơn xin ly hôn anh V, Tòa án đã ra thông báo thụ lý, anh V có đến Tòa án viết bản tự khai, anh không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được giải pháp nào để vợ chồng về đoàn tụ, anh V không đến tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải; tại phiên tòa, anh V đồng ý ly hôn với chị C; đề nghị Tòa án giao con chung là Trần Vũ MA, sinh ngày 26/8/2017, cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 02 triệu đồng kể từ tháng 5/2019 đến khi con chung đủ 18 tuổi; anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản. Chị C có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm xin ly hôn anh V. Như vậy có thể thấy tình cảm vợ chồng của anh V và chị C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị Vũ Thị Mai C được ly hôn anh Trần Quang V.
[3] Về con chung: Chị C và anh V có 01 con chung Trần Vũ MA, sinh ngày 26/8/2017. Giao con chung cho chị C được trực tiếp nuôi dưỡng, anh V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 02 triệu đồng kể từ tháng 5/2019; anh V có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
[4] Về tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Vũ Thị Mai C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Trần Quang V phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Xử cho chị Vũ Thị Mai C được ly hôn anh Trần Quang V.
2. Về con chung:
Giao con chung Trần Vũ MA, sinh ngày 26/8/2017 cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, anh V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 02 triệu đồng kể từ tháng 5/2019 đến khi con chung đủ 18 tuổi; anh V có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
3. Về tài sản chung:
Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí:
Nguyên đơn là chị Vũ Thị Mai C phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị C đã nộp theo Biên lai số 0008990 ngày 26/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chị Vũ Thị Mai C đã nộp đủ án phí. Anh Trần Quang V phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
5. Quyền kháng cáo:
Nguyên đơn là chị Vũ Thị Mai C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án; bị đơn là anh Trần Quang V có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 17/5/2019./.
Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị C và anh V
Số hiệu: | 22/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về