Bản án 54/2017/HNGĐ-ST ngày 21/07/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 54/2017/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 7 năm 2017, tại T a án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công hai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ l số: 128/2017/TLST- HNGĐ ngày 07/3/2017 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2017/QĐHNGĐ-ST ngày 30/6/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị D, sinh năm 1988; Thường trú: ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang.

Tạm trú: số nhà 31 đường 13, hu phố T, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trường A, sinh năm 1987;

Thường trú: ấp P, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang.

Tạm trú: số nhà 31 đường 13, hu phố T, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27/02/2017 và lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Võ Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Sau một thời gian tìm hiểu, chị Võ Thị D và anh NguyễnTrường A tiến tới hôn nhân và về sống chung với nhau từ năm 2006, nhưng đến năm 2011 mới đăng ết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang, theo giấy chứng nhận ết hôn số 80 ngày 21/7/2011, việc ết hôn là hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình đồng và có tổ chức lễ cưới.

Sau hi ết hôn, vợ chồng sống chung gia đình nhà chị D tại tỉnh Kiên Giang, đến năm 2008 anh chị thuê trọ và sinh sống tại phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính tình vợ chồng hông hợp nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã nhau và đánh nhau. Chị D đã nhiều lần bỏ ra ngoài sinh sống, sau đó có quay về sống cùng anh A nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn hông cải thiện được. Đến tháng 02 năm 2017 do ba mẹ chị D ra nước ngoài sinh sống hông có người chăm sóc hai con của anh chị nên chị D đã về quê sinh sống để chăm sóc hai con và vợ chồng anh chị cũng sống ly thân từ thời gian này cho đến nay. Nay chị Võ Thị D xác định tình cảm vợ chồng hông còn, mục đích hôn nhân hông đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Trường A.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên Nguyễn Trường H, sinh ngày 21/12/2006 và Nguyễn Thành N, sinh ngày 25/02/2011, hi ly hôn chị D yêu cầu được trực tiếp nuôi hết hai con chung, yêu cầu anh A phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.500.000 đồng/tháng/02 con cho đến hi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không yêu cầu T a án giải quyết.

Về quyền và nghĩa vụ tài sản chung: Không yêu cầu T a án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/3/2017 trong quá trình tố tụng bị đơn anh Nguyễn Trường A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Trường A thống nhất với phần trình bày của chị Võ Thị D về thời gian tìm hiểu, thời gian chung sống và việc ết hôn, nơi ở của vợ chồng. Vợ chồng sống hạnh phúc hông phát sinh mâu thuẫn gì lớn chỉ là những cải vã trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, từ năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh A bị tai nạn lao động, hông đi làm được nên hông có thu nhập dẫn đến chị D thường iếm cớ chửi bới anh A và chị D nhiều lần bỏ nhà ra ngoài sinh sống. Đến tháng 02 năm 2017 do ba mẹ chị D ra nước ngoài sinh sống, hông có ai chăm sóc các con của anh chị nên chị D đã về quê sinh sống để chăm sóc các con. Vợ chồng anh chị cũng sống ly thân từ tháng 02 năm 2017 cho đến nay. Anh A xác định hiện vợ chồng sống vẫn hạnh phúc nên trước yêu cầu ly hôn của chị Võ Thị D thì anh hông đồng .

Về con chung: Anh Nguyễn Trường A thống nhất vợ chồng có 02 con chung như chị D trình bày. Trường hợp Tòa án giải quyết cho chị D ly hôn với anh thì anh cũng đồng để cho chị được trực tiếp nuôi hết hai con chung tên Nguyễn Trường H, sinh ngày 21/12/2006 và Nguyễn Thành N, sinh ngày 25/02/2011, anh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng là 1.500.000 đồng/tháng/02 con cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quyền và nghĩa vụ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ý iến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Chị Võ Thị D và anh Nguyễn Trường A được T a án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, tuy nhiên cả hai anh chị đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng quy định. Về hôn nhân, chị D và anh A có đăng ết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng đã mâu thuẫn trong một thời gian dài, hông thể hàn gắn. Về con chung, chị D hiện đang là người trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung. Chị D và anh A đều thống nhất để cho chị D được trực tiếp nuôi dưỡng hết hai con chung, anh A cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.500.000 đồng/tháng. Do đó chị D hởi iện yêu cầu được ly hôn với anh A và nuôi hết hai con chung, yêu cầu cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.500.000 đồng/tháng/02 con là có căn cứ đề nghị T a án xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau hi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ ết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương nhận định:

 [1] Về điều iện thụ l vụ án: Chị Võ Thị D có đơn đề nghị T a án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương giải quyết tranh chấp ly hôn, nuôi con quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ tạm trú tại phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của T a án nhân dân thị xã Dĩ An theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Võ Thị D và bị đơn anh Nguyễn Trường A có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt vào ngày 08/6/2017. Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, T a án xét xử vắng mặt các đương sự trên.

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị D và anh Nguyễn Trường A là vợ chồng có đăng ết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang, theo giấy chứng nhận ết hôn số 80 ngày 21/7/2011, là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị D xác định sau thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình vợ chồng hông hợp nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã nhau và đánh nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2017. Hội xét xử nhận thấy mặc dù anh A cho rằng vợ chồng hông có mâu thuẫn gì lớn chỉ là những cải vã nhỏ trong cuộc sống hàng ngày nên anh hông đồng ly hôn, tuy nhiên anh A cũng thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2017 và từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay thì bản thân anh cũng hông đưa ra được phương án để vợ chồng hàn gắn tình cảm, điều này chứng tỏ tình anh chị hông còn tình cảm với nhau, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh chị đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân hông đạt được. Vì vậy, chị Võ Thị D yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Trường A là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên có căn cứ chấp nhận.

 [4] Về con chung: Giữa chị Võ Thị D và anh Nguyễn Trường A có hai con chung Nguyễn Trường H, sinh ngày 21/12/2006 và Nguyễn Thành N, sinh ngày 25/02/2011 chị D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hết hai con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét về mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét cháu H và cháu N còn nhỏ cần sự chăm sóc nuôi dưỡng của người mẹ, từ hi vợ chồng sống ly thân thì chị D trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc các cháu. Cháu H có nguyện vọng được sống với mẹ, đồng thời anh A cũng đồng giao hết hai con chung cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Do vậy, việc giao con hai chung cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều iện thực tế của hai bên và đảm bảo tiếp tục duy trì cuộc sống bình thường về mọi mặt của các cháu là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

 [5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Võ Thị D yêu cầu anh Nguyễn Trường A cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.500.000 đồng. Xét thấy anh A là người có hả năng lao động, mức thu nhập hằng tháng theo trình bày của anh A hiện nay là hoảng 5.500.000 đồng – 6.000.000 đồng/tháng và việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ chung của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Yêu cầu của chị D được anh A đồng và cũng phù hợp với mức cấp dưỡng trung bình tại địa phương, phù hợp với điều iện và thu nhập hàng tháng của anh A nên chấp nhận.

 [6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự hông yêu Tòa án giải quyết.

 [7] Từ những nhận định trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu hởi iện về tranh chấp ly hôn, nuôi con của chị Võ Thị D với anh Nguyễn Trường A.

 [8] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An là phù hợp như những phân tích nêu trên.

 [9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Võ Thị D chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014 và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Anh Nguyễn Trường A chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và sử dụng án phí và lệ phí T a án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 26, Điểm a Khoản 5 và Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị D được ly hôn với anh Nguyễn Trường A.

2. Về con chung: Buộc anh Nguyễn Trường A giao hai con chung là cháu Nguyễn Trường H, sinh ngày 21/12/2006 và Nguyễn Thành N, sinh ngày 25/02/2011 cho chị Võ Thị D trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau hi ly hôn, chị Võ Thị D và anh Nguyễn Trường A có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, hông ai có quyền cản trở chị D và anh A thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, T a án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Trường A phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 750.000 đồng/tháng/một con (bảy trăm năm mươi nghìn đồng mỗi tháng cho một người con), tổng 1.500.000 đồng/tháng/hai con (một triệu năm trăm nghìn đồng mỗi tháng cho hai con). Thời hạn cấp dưỡng ể từ hi quyết định có hiệu lực pháp luật cho đến hi cháu Nguyễn Trường H và cháu Nguyễn Thành N đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc ể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến hi thi hành xong, tất cả các hoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền hoản lãi của số tiền c n phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại hoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự hông yêu cầu nên Tòa án hông xem xét, giải quyết.

5. Về phí dân sự sơ thẩm: Chị Võ Thị D phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được hấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0008916 ngày 07/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Anh Nguyễn Trường A phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

6. Án xử công hai, tuyên án vắng mặt các đương sự.

7. Nguyên đơn chị Võ Thị D và bị đơn anh Nguyễn Trường A vắng mặt được quyền háng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

8. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2017/HNGĐ-ST ngày 21/07/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:54/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;