Bản án 53/2024/HS-PT về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 53/2024/HS-PT NGÀY 23/02/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 23 tháng 02 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 13/2024/TLPT-HS ngày 03 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Hồ Dương Đ cùng 03 bị cáo khác về tội “Giết người”.

Do có kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.

- Các bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Họ và tên: Hồ Dương Đ (tên gọi khác: Tí); sinh năm: 1998 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT: Khánh Hòa; chỗ ở: C4, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: không biết chữ; con ông Hồ Dương V, sinh năm 1977 và bà Võ Thị A (Võ Kim A), sinh năm 1978; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: ngày 05/6/2018 bị TAND thành phố Cam Ranh xử phạt 02 năm tù về tội “Hủy hoại tài sản” theo Bản án số 20/2018/HS-ST; chấp hành án xong ngày 18/01/2020.

Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 18/4/2022; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Hoàng Bảo L; sinh ngày: 16/7/2005 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT: Khánh Hòa; chỗ ở: C4, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 08/12;

con ông Lê Bảo T, sinh năm 1980 và bà Cao Thị Mai L, sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 18/4/2022; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Lê Hoàng P (tên gọi khác: Bi), sinh năm: 2003 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT: 111/16 đường Phước L, Phước L, thành phố N4, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; con ông Lê Văn L1, sinh năm 1973 và bà Phan Thị L2, sinh năm 1982; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt giam từ ngày 06/5/2022; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Thiều Quang H (tên gọi khác: Cò), sinh năm: 1984 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT: Khánh Hòa; chỗ ở: thành phố N4, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; Cha: Thiều Quang N, sinh năm 1935; Mẹ: Phạm Thị Nh, sinh năm 1942 (chết). Vợ: Đỗ Thị Ngọc Trinh, sinh năm 1987. Con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giam từ ngày 06/5/2022; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm Công an tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo Hồ Dương Đ, Lê Hoàng Bảo L, Lê Hoàng P theo chỉ định của Tòa án: Luật sư Ngô Minh T1 - Văn phòng luật sư M và cộng sự thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa;

Địa chỉ: thành phố N4, tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo Thiều Quang H theo yêu cầu của bị cáo: Luật sư Đặng Văn P1 - Văn phòng luật sư Đặng Văn P1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa;

Địa chỉ: thành phố N4, tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo:

1. Bà Hoàng Kim T2, sinh năm 1979 (vợ của bị hại); có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1954 (mẹ của bị hại); vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Cùng địa chỉ: phường Phước L, thành phố N4, tỉnh Khánh Hòa.

- Người làm chứng: anh Nguyễn Thành C2, sinh năm 2001; địa chỉ: 5/5 Phước Tường, phường Phước L, thành phố N4, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13h30 ngày 17/4/2022, Thiều Quang H (Quang H) thuê xe chở đá đến xây nhà tại 404/1/2 đường L3, Phước L, thành phố N4 thì bị anh Đặng Thành H (Thành H) nhà ở bên cạnh ngăn cản không cho xây dựng nên giữa hai bên xảy ra mâu thuẫn. Chiều cùng ngày, tại quán cà phê S đường số 4 Phước L, thành phố N4, Quang H gặp Lê Hoàng P (cũng có mâu thuẫn với Thành H do Thành H nuôi chó nhưng thường hay sang nhà P phóng uế). Sau khi nghe Quang H kể cho P nghe việc Thành H ngăn cản không cho Quang H xây nhà thì P nói có quen biết một số người có thể bảo kê cho Quang H xây nhà và đánh dằn mặt nếu Thành H ngăn cản việc xây nhà của Quang H. Quang H nhờ P tìm người và diện thoại cho Hồ Dương Đ, Lê Hoàng Bảo L từ Tân Hòa 2, C3, C4, Khánh Hòa ra thành phố N4 với mục đích bảo kê cho Quang H xây dựng nhà và đánh dằn mặt nếu Thành H ngăn cản. Khi đi Đ, L mang 02 con dao Thái Lan dài 35 cm đựng trong túi vải màu đỏ. Tại quán cà phê Quang H trực tiếp thỏa thuận với Đ và L về việc bảo kê xây dựng nhà và đánh dằn mặt nếu Thành H ngăn cản với giá 5 triệu đồng. Sau khi thỏa thuận xong, Quang H gọi điện thoại cho xe chở đá đến để tiếp tục xây dựng nhà và nói với P, Đ, L: Giờ đang có xe chở đá đến, anh em hỗ trợ giúp nếu thằng hàng xóm đến quậy phá thì đánh cho nó sợ. Sau đó Quang H lấy xe máy đi về nhà trước, còn Đ điện thoại cho bạn là Nguyễn Thành C2 đến để nhờ C2 chở Đ còn P chở L đi đến nhà của Quang H ở 404/1/2 đường L3, Phước L, thành phố N4. Khi đến nơi thấy Thành H đang ngăn cản việc Quang H chuyển đá để xây nhà thì Đ nói với Thành H: Ông để người ta khiêng đá vào nhà, Thành H nói lại: Đây không phải nhà tụi mày, giấy tờ nhà tụi mày đâu và tiếp tục ngăn cản không cho Quang H khiêng đá xây nhà. Nghe Thành H nói vậy thì Đ, L, P xông đến L, P khống chế Thành H (L dùng tay bẻ tay anh Thành H ra phía sau, còn P dùng tay xô đẩy anh Thành H), Đ dùng dao Thái Lan chém vào vùng má trái Thành H làm rớt con dao xuống đất, Đ cúi xuống nhặt lên đâm nhiều nhát vào vùng ngực, nách, bụng của Thành H. Quang H đến chụp dao, ngăn không cho Đ đâm tiếp nên Quang H bị thương ở tay. Sau khi sự việc xảy ra Đ, L được C2, P dùng xe máy chở xuống Cửa Bé, Vĩnh Trường để mua bông băng vết thương ở tay cho Đ sau đó chở đến đường Nguyễn Tất Thành, thành phố N4 để thuê xe về nhà ở C4. Đến 0h55 ngày 18/4/2022, Đ, L bị Cơ quan điều tra phát hiện bắt giữ và thu giữ con dao gây án tại nơi ở Tân Hòa 2, C3, C4, Khánh Hòa. Sau khi bị đâm Thành H được đưa đi cấp cứu và tử vong tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa lúc 04h00 ngày 18/4/2022.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 190 ngày 29/4/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận nguyên nhân tử vong của Đặng Thành H: suy tuần hoàn, suy hô hấp do đa chấn thương.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 22/11/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa quyết định:

1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Hồ Dương Đ hình phạt Chung thân về tội “Giết người”, Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 18/4/2022.

2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng P 18 (Mười tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 06/5/2022.

3. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Thiều Quang H 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 06/5/2022.

4. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng Bảo L 13 (Mười ba) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 18/4/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo và quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/11/2023, người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Hoàng Kim T2 (vợ bị hại) và bà Nguyễn Thị Đ1 (mẹ bị hại) kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo Hồ Dương Đ, Lê Hoàng P, Thiều Quang H và Lê Hoàng Bảo L; xem xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thành C2 về đồng phạm trong tội “Giết người” và tội “Che giấu tội phạm”.

Ngày 01/12/2023, bị cáo Thiều Quang H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 11/01/2024 và ngày 21/02/2024, người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Hoàng Kim T2 và bà Nguyễn Thị Đ1 có đơn thay đổi một phần nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo và không yêu cầu xem xét trách nhiệm đối với anh Nguyễn Thành C2.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Thiều Quang H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; người đại diện hợp pháp của bị hại rút một phần kháng cáo về nội dung xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh Nguyễn Thành C2.

- Đ diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 342; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng Hình sự, đình chỉ một phần nội dung kháng cáo của đại diện bị hại đối với anh Nguyễn Thành C2; không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại và kháng cáo của bị cáo Thiều Quang H về xin giảm nhẹ hình phạt; giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

- Người bào chữa cho các bị cáo Hồ Dương Đ, Lê Hoàng Bảo L, Lê Hoàng P là luật sư Ngô Minh T1 thống nhất tội danh, điều luật mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi xét xử sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo Thiều Quang H là luật sư Đặng Văn P1 không tranh luận về tội danh mà đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét các tình tiết giảm nhẹ như: sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo H đã thực hiện xong nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con ruột của bị hại là cháu Đặng Hoàng Nguyên Phúc; cấp dưỡng cho bố mẹ của bị hại số tiền 30.000.000 đồng. Bị cáo H đã rất tích cực bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, tổng số tiền mà bị cáo bồi thường cho phía gia đình bị hại hơn 250.000.000 đồng; đồng thời đại diện của bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Thiều Quang H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Ngày 29/11/2023, người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Hoàng Kim T2 (vợ bị hại) và bà Nguyễn Thị Đ1 (mẹ bị hại) có đơn kháng cáo tăng hình phạt đối với các bị cáo, xem xét trách nhiệm của anh Nguyễn Thành C2, sau đó, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn thay đổi nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và không yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh Nguyễn Thành C2; ngày 01/12/2023, bị cáo Thiều Quang H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bà T2, bà Đ1 và bị cáo là những chủ thể có quyền kháng cáo, Đơn kháng cáo của những người kháng cáo trong thời hạn quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Xét thấy, việc rút một phần kháng cáo của đại diện bị hại về việc xem xét trách nhiệm hình sự của anh Nguyễn Thành C2 trong vụ án là tự nguyện, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử đối với phần kháng cáo này của người đại diện hợp pháp của bị hại như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà.

[2]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời bào chữa của người bào chữa cho các bị cáo, quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

[2.1]. Về tội danh:

Sau khi kể cho Lê Hoàng P chuyện mình và Đặng Thành H có mâu thuẫn do Đặng Thành H ngăn cản không cho xây nhà, Thiều Quang H đã nhờ Lê Hoàng P thuê Hồ Dương Đ bảo kê việc mình xây nhà để không bị quậy phá, ngăn cấm. Sau khi giữa Hồ Dương Đ, Lê Hoàng Bảo L, Lê Hoàng P và Thiều Quang H bàn bạc, thỏa thuận thống nhất về việc đánh dằn mặt để bảo kê xây nhà, vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/4/2022, nhóm của Đ gồm có Đ, L, P, Quang H đến địa chỉ 404/1/2 đường L3, Phước L, thành phố N4, Khánh Hòa - nơi nhà Thiều Quang H đang xây; tại đây, L dùng tay bẻ tay Thành H ra phía sau, P dùng tay xô đẩy Thành H, Đ dùng dao Thái Lan chém vào vùng má trái Thành H làm rớt con dao xuống đất, sau đó Đ cúi xuống nhặt lên đâm nhiều nhát vào vùng ngực, nách, bụng của Thành H làm anh Đặng Thành H tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 190 ngày 29/4/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận nguyên nhân tử vong của Đặng Thành H do: suy tuần hoàn, suy hô hấp do đa chấn thương.

Hành vi của các bị cáo thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật; trong cùng một lúc, các bị cáo thực hiện hành vi liên tục, kế tiếp nhau, hỗ trợ nhau để đánh Đặng Thành H; Hồ Dương Đ dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm liên tiếp vào má, ngực, nách, bụng là vùng trọng yếu của cơ thể bị hại dẫn đến tử vong. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Hồ Dương Đ, Lê Hoàng P, Thiều Quang H và Lê Hoàng Bảo L về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và kháng cáo của bị cáo Thiều Quang H, kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại, thấy rằng:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù cùng thực hiện tội phạm nhưng với tính chất, mức độ khác nhau nên HĐXX cần xem xét, phân hóa vai trò của mỗi bị cáo để cụ thể hóa mức hình phạt cho phù hợp.

[2.2.1]. Đối với bị cáo Hồ Dương Đ:

Bản thân Đ không quen biết, không mâu thuẫn gì với Đặng Thành H nhưng khi được P gọi điện nói có người thuê “bảo kê” thì Đ liền đồng ý và rủ Lê Hoàng Bảo L cùng tham gia. Bị cáo là người chuẩn bị hung khí đồng thời là người thực hành tích cực; khi chém vào vùng má trái của bị hại làm dao rơi xuống đất, bị cáo không dừng lại mà tiếp tục nhặt dao lên và đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng ngực, nách, bụng của bị hại. Hành vi của bị cáo thể hiện sự quyết liệt tước đoạt tính mạng của bị hại. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xem xét bị cáo Hồ Dương Đ có vai trò tích cực, có hành vi nguy hiểm nhất trong vụ án này là có cơ sở.

[2.2.2]. Đối với các bị cáo Lê Hoàng Bảo L và Lê Hoàng P:

Cũng như bị cáo Hồ Dương Đ, Lê Hoàng Bảo L không quen biết, không có mâu thuẫn với Đặng Thành H nhưng khi được Đ gọi điện rủ tham gia “bảo kê” thì bị cáo tiếp nhận ý chí của Đ và cùng tham gia. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo bàn bạc thống nhất để L hỗ trợ cho Đ nếu Đ đánh Đặng Thành H.

Đối với Lê Hoàng P, giữa bị cáo và Đặng Thành H chỉ là mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống (do chó của Thành H thường sang nhà P phóng uế) nhưng khi nghe mâu thuẫn giữa Quang H và Thành H, bị cáo không những không khuyên răn, hòa giải mà còn chủ động giới thiệu nhóm của Đ để bị cáo H thuê “bảo kê”, đánh dằn mặt nếu anh Đặng Thành H ngăn cản Thiều Quang H xây nhà; sau đó P cũng là người tham gia đánh Thành H cùng với nhóm của Đ.

Trong vụ án này, Lê Hoàng Bảo L và Lê Hoàng P thực hiện hành vi khống chế Đặng Thành H nhằm hỗ trợ cho Đ đánh bị hại; L dùng tay bẻ tay Thành H ra phía sau còn P dùng tay xô đẩy Thành H. Hành vi của Lê Hoàng Bảo L và Lê Hoàng P đã tạo điều kiện cho Đ tiếp tục đâm bị hại dẫn đến tử vong. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Lê Hoàng Bảo L và Lê Hoàng P đồng phạm giúp sức có tính chất, mức độ hành vi ngang nhau nên mức hình phạt cũng tương đương và thấp hơn bị cáo Hồ Dương Đ là phù hợp. Đồng thời, khi thực hiện hành vi phạm tội, Lê Hoàng Bảo L là người chưa thành niên nên được Tòa án xem xét khi lượng hình theo quy định pháp luật.

[2.2.3]. Đối với bị cáo Thiều Quang H:

Bị cáo thuê nhóm của Đ để “bảo kê” việc xây nhà. Khi thuê Đ, L đánh Đặng Thành H, bị cáo H không giới hạn vị trí cụ thể trên cơ thể bị hại cũng như giới hạn hậu quả xảy ra. Bị cáo thừa nhận: bị cáo yêu cầu nhóm Đ đánh để không phá việc xây nhà, còn đánh thế nào thì bị cáo không quan tâm vì Đ nói “tụi em đánh nó thì tụi em chịu” (BL 277, 501). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xem xét Thiều Quang H với vai trò đồng phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do nhóm của Hồ Dương Đ gây ra là có cơ sở, đúng pháp luật. Tuy nhiên, sau khi thấy Đ đâm Thành H, bị cáo đã tiến hành can ngăn nên xem xét vai trò của bị cáo nhẹ hơn các bị cáo khác là phù hợp.

[2.2.4]. Tại cấp sơ thẩm, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Lê Hoàng P, Thiều Quang H, Lê Hoàng Bảo L đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội, bị cáo Thiều Quang H ra đầu thú, bồi thường cho bị hại 110.000.000 đồng; bị cáo Lê Hoàng Bảo L bồi thường cho bị hại 15.000.000 đồng; H và L được đại diện của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho từng bị cáo.

Đối với Hồ Dương Đ, bị cáo đã rủ rê, xúi giục Lê Hoàng Bảo L là người dưới 18 tuổi phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt Hồ Dương Đ tù Chung thân; Lê Hoàng P 18 năm tù; Thiều Quang H 15 năm tù và Lê Hoàng Bảo L 13 năm tù là đã xem xét toàn diện vụ án, mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, thể hiện sự phân hóa vai trò tội phạm, đảm bảo nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như công tác giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2.2.5]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Thiều Quang H đã tác động gia đình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 01 lần đối với cháu Đặng Hoàng Phúc Nguyên (con của bị hại) số tiền 201.750.000 đồng; cấp dưỡng cho ông Đặng Minh Chuẩn và bà Nguyễn Thị Đ1 (cha, mẹ của bị hại) số tiền 30.000.000 đồng; bồi thường cho phía bị hại 32.500.000 đồng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp, việc bị cáo Thiều Quang H thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình bị hại sẽ được xem xét khấu trừ trong quá trình thi hành án.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Thiều Quang H và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Hoàng Kim T2, bà Nguyễn Thị Đ1; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với các bị cáo.

[3]. Xét kiến nghị tại mục [4] phần Nhận định của Bản án sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 22/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa:

Nguyễn Thành C2 có hành vi điều khiển xe máy chở Hồ Dương Đ đến nhà của Thiều Quang H đang xây. Trước và trong khi đi, giữa C2 và Đ không thỏa thuận, bàn bàn gì với nhau, C2 không biết nhóm của Đ đến đó để đánh Đặng Thành H. Sau khi chứng kiến việc nhóm của Đ đánh bị hại thì C2 điều khiển xe máy chở Đ đi băng bó vết thương rồi chở đến đường Nguyễn Tất Thành để Đ và L đón xe về nhà ở của mình tại C3, C4, Khánh Hòa mà không có ý thức chở Đ, L đi bỏ trốn. Khi biết anh Đặng Thành H chết, C2 chủ động khai báo, tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra trong việc chứng minh tội phạm. Nguyễn Thành C2 không có hành vi cản trở, gây khó khăn cho công tác điều tra vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hoà và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hoà không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thành C2 là có cơ sở.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Thiều Quang H phải chịu; bà Hoàng Kim T2 và bà Nguyễn Thị Đ1 không phải chịu.

[5]. Các phần quyết định của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 3 Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Đình chỉ xét xử đối với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Hoàng Kim T2 và bà Nguyễn Thị Đ1 về phần xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh Nguyễn Thành C2.

2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Hoàng Kim T2, bà Nguyễn Thị Đ1 và kháng cáo của bị cáo Thiều Quang H.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 22/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đối với các bị cáo.

2.1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: bị cáo Hồ Dương Đ tù Chung thân về tội “Giết người”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18/4/2022.

2.2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: bị cáo Lê Hoàng P 18 (mười tám) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 06/5/2022.

2.3. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: bị cáo Thiều Quang H 15 (mười lăm) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 06/5/2022.

2.4. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: bị cáo Lê Hoàng Bảo L 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 18/4/2022.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Thiều Quang H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm;

4. Các phần quyết định của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

527
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2024/HS-PT về tội giết người

Số hiệu:53/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;