TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 53/2021/HSST NGÀY 29/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2021/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Văn, sinh ngày 25/02/1992 tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Hồng V, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1964; vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1995; có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 13/4/2021 đến ngày 16/4/2021 chuyển tạm giam (có mặt tại phiên tòa).
* Người chứng kiến:
- Ông Trần Xuân L, sinh năm 1955; nơi cư trú: Thôn Minh Đ, xã Lô Gi, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
- Ông Trần Duy Th, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn Hoàng N, xã Lô Gi, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 13/4/2021, Phạm Văn L đi bộ từ nhà ra trục đường xã rồi đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết đến ngã tư đèn tín hiệu giao thông thuộc xã Minh T, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình thì xuống xe đi bộ, sau đó tiếp tục đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết khác đi về hướng xã Lô giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Khi đến cầu Đình Th thuộc thôn Phú N, xã Lô Gi, L xuống xe và đi bộ qua cầu khoảng 30m thì thấy một người đàn ông khoảng 30 tuổi, cao chừng 1m65, mặt đeo khẩu trang đang đứng ở mé đường như chờ ai đó. Thấy dáng người giống người mà L đã nghe người sử dụng ma túy nói chuyện ở quán nước ven đường nên L hỏi “Anh có Hê bán không”, Hê có nghĩa là Hêrôin, người này bảo “có”, L đưa luôn cho người này 200.000 đồng thì người đàn ông đó lấy luôn gói ma túy trong người đưa cho L, L cầm gói ma túy rồi bỏ vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi đi bộ về hướng xã Lô Gi để đi tới nơi làm việc. Khi L đang đi bộ ở trục đường xã Lô Gi thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng lại kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. L đã tự giác lấy từ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc 01 gói nhỏ được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục giao nộp cho lực lượng Công an, L khai nhận đó là gói Hêrôin L vừa mua, mục đích để sử dụng cho bản thân.
Kết luận giám định số 115/KLGĐMT-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,1532 gam (Không phảy một nghìn năm trăm ba mươi hai gam).
- Tại phiên tòa, Phạm Văn L thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố. Bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi và quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng.
- Lời khai của người chứng kiến là ông Trần Xuân L và ông Trần Duy Th thể hiện: Đầu giờ chiều ngày 13/4/2021 các ông đã chứng kiến việc Công an huyện Đông Hưng và Công an xã Lô Gi khám xét, thu giữ ma túy của Phạm Văn L.
Bản cáo trạng số 50/CT-VKSĐH ngày 08 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng truy tố Phạm Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Phạm Văn L theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Phạm Văn L từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Phạm Văn L .
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroin được hoàn trả sau giám định (niêm phong trong phong bì số 115/KLGĐMT-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình).
- Về án phí: Bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo vi phạm pháp luật, bị cáo hứa sẽ cải tạo tốt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng và được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Đông Hưng lập hồi 13 giờ 55 phút ngày 13/4/2021; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản kết luận giám định số 115/KLGĐMT-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của người chứng kiến là ông Trần Duy Th và ông Trần Xuân L; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Phạm Văn L là người đã thành niên, có nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện việc tàng trữ trái phép trên người 0,1532 gam Heroine (Không phảy một nghìn năm trăm ba mươi hai gam), mục đích để sử dụng cho bản thân. L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố.
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
[3]. Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo L thấy: Hành vi của L là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, là nguyên nhân làm phát sinh và gia tăng các loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Hậu quả mà L gây ra phải chịu sự trừng trị của pháp luật, đây là bài học cho L và những người mắc nghiện ma túy, phạm các tội về ma túy.
[4]. Khi quyết định hình phạt, xét thấy:
Bị cáo L không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5]. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và để giáo dục, phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn; bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6]. Về vật chứng vụ án:
Số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cần tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về nguồn gốc ma tuý: Quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được người bán ma túy cho bị cáo là ai, nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Phạm Văn L 01 năm 09 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 13/4/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroin thu của Phạm Văn L được hoàn trả sau giám định (niêm phong trong phong bì số 115/KLGĐMT-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình).
(Vật chứng trên đã được bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 09/7/2021).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.
Bị cáo Phạm Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 53/2021/HSST ngày 29/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 53/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về