TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 53/2021/HS-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2021/TLST- HS ngày 07 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2021/QĐXXST-HS ngày 13/01/2021 đối với bị cáo:
Thào A D, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1993, tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: theo Đạo tin lành; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: không; con ông Thào A T và bà Lý Thị D; bị cáo có vợ là Lù Thị S sinh năm 1996 và có 03 con; con lớn sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2020 đến nay. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Phương Vũ là Luật sư, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lù Thị S sinh năm 1996. Trú tại: Bản Huổi Tao, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người phiên dịch Ông: Giàng Bả Vừ, trú tại Thôn 7, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 15 phút ngày 27/9/2020, tổ công tác đội cảnh sát hình sự Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực bản H, xã K, huyện M đã phát hiện Thào A D, trú tại Bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, đang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Thào A D.
Vật chứng thu giữ gồm: 30 túi nilon bên trong chứa 5.228 viên nén màu hồng (nghi ma túy tổng hợp).
Tạm giữ của Thào A D 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS 26C1- 202.72; 02 điện thoại di động (01 nhãn hiệu ITEL, 01 nhãn hiệu Xiaomi).
Ngày 28/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M tỉnh Sơn La thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: 5.228 viên nén màu hồng có khối lượng 533,17gam, trích lấy 150 viên có khối lượng 15,30gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu từ D1 đến D30.
Tại Kết luận giám định số: 1527 ngày 01/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Các mẫu gửi giám định ký hiệu từ D1 đến D30 đều là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 15,30gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 533,17 gam; loại Methamphetamine.” Quá trình điều tra bị cáo Thào A D khai nhận: Ngày 20/9/2020, Thào A D điều khiển xe mô tô BKS 26C1-202.72 từ nhà ở bản Huổi Tao, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La đến quán Cường Gấm tại bản C1, xã C, huyện M ăn sáng. Tại đây, D gặp một người đàn ông không quen biết tự giới thiệu ở bên Lào, qua nói chuyện người đàn ông nói có hồng phiến bán với giá 1.500.000đ/01 túi hồng phiến. Nghe xong D đặt mua 30 túi, người đàn ông đồng ý hẹn D ngày 27/9/2020 gặp nhau ở khu vực biên giới bản B, xã M, huyện M để trao đổi mua bán ma túy, trước khi đi hai người cho nhau số điện thoại để liên lạc. Khoảng 6 giờ 00 ngày 23/9/2020, D điều khiển xe mô tô BKS 26C1-202.72 đi từ nhà đến chợ trung tâm thị trấn S thuộc tổ 4, thị trấn S chơi thì gặp một người đàn ông tự giới thiệu tên Đ nhà ở thành phố Hải Phòng, qua trao đổi Đ đặt mua của D 30 túi hồng phiến, hai bên thỏa thuận giá 2.000.000đ/01 túi hồng phiến. D đồng ý hẹn Đ buổi trưa ngày 27/9/2020 gặp nhau ở khu vực dốc bản H, xã K, huyện M để trao đổi mua bán ma túy, trước khi đi hai người có cho nhau số điện thoại để liên lạc.
Khoảng 4 giờ 30 ngày 27/9/2020, D lấy 45.000.000đ của gia đình rồi điều khiển xe mô tô BKS 26C1-202.72 từ nhà đến khu vực biên giới thuộc bản B, xã H, huyện M mục đích để mua ma túy. Khi đến nơi thì người đàn ông bên Lào đưa cho D một túi nilon màu đen và bảo bên trong có 30 túi hồng phiến, D trả 45.000.000đ cho người đàn ông và nhận ma túy cất vào cốp xe máy. Mua được ma túy, D gọi điện cho Đông hẹn trưa ngày 27/9/2020 đến khu vực dốc bản H, xã K để mua bán ma túy. Sau đó D đi đến điểm hẹn thấy Đ đứng cạnh 01 xe ô tô (D không nhớ nhãn hiệu, biểm kiểm soát), trên xe tại vị trí lái có một người đàn ông D không quen biết, Đ bảo D vào trong xe để giao dịch, đồng thời Đ lấy điện thoại của D để xóa các số thuê bao của Đ đã gọi (trong đó có cả số thuê bao của người đã bán ma túy cho D), khi Đ đang kiểm tra chất lượng ma túy thì tổ công tác công an huyện M bắt quả tang đối với Thào A D và vật chứng thu giữ như đã nêu ở trên, còn Đông cùng người đàn ông điều khiển xe ô tô bỏ chạy thoát.
Về nguồn gốc 5.228 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 533,17gam bị thu giữ, Thào A D khai mua của người đàn ông bên Lào không biết tên địa chỉ. Ngoài lời khai của D, cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án.
Đối với người đàn ông tên Đông, D khai không nhớ số điện thoại, không biết địa chỉ cụ thể, còn người đàn ông đi cùng Đông, D mới gặp lần đầu tiên nên không biết tên, địa chỉ của người đó. Vì vậy cơ quan điều tra không có căn cứ mở rộng xác minh điều tra.
Tại Cáo trạng số: 08/CT-VKS-P1 ngày 06/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Thào A D về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo và đề nghị: Tuyên bố bị cáo: Thào A D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Thào A D tù Chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2020. Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của Luật sư Nguyễn Phương Vũ bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng các tình tiết, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sau khi bị bắt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số hiểu biết pháp luật còn hạn chế, bị cáo thuộc hộ nghèo Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt tù, miễn hình phạt tiền và án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
- Bị cáo Thào A D nhận tội và nhất trí với quan điểm bào chữa của Luật sư, xin giảm nhẹ hình phạt mức án thấp nhất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lù Thị S trình bày: Chị và anh Thào A D kết hôn năm 2014. Chiếc xe máy BKS 26C1-202.72 là tài sản chung vợ chồng, việc bị cáo D sử dụng chiếc xe đi mua bán ma túy chị S không biết. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi là điện thoại của chị, bị cáo D mượn để mang theo nghe nhạc. Chị S đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc điện thoại và xe máy.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Ngày 27/9/2020, Thào A D bị bắt quả tang khi đang có hành vi bán trái phép 533,17gam Methamphetamine cho người khác để kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ như sau:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 15 phút ngày 27/9/2020, tại bản H, xã K, huyện M, tỉnh Sơn La; vật chứng thu giữ của vụ án;
- Kết luận giám định loại ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Các mẫu gửi giám định ký hiệu từ D1 đến D30 đều là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 15,30gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 533,17 gam; loại Methamphetamine.” - Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Từ các chứng cứ chứng minh nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Thào A D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.
[3] Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Thào A D đã có hành vi mua bán trái phép 533,17gam Methamphetamine, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự “Heroine, Cocaine, Methamphetamine……có khối lượng 100 gam trở lên”có khung hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Thào A D là người có đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc mua bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lời nên đã cố ý thực hiện việc mua bán 533,17gam Methamphetamine. Bị cáo mua bán ma túy với khối lượng lớn, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, xâm pham chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước v ề chất ma túy; tội phạm vê ma tuy còn là nguyên nhân lam phat sinh cac tôi pham khac gây mất trật tự trị an trên địa bàn địa phương. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo được tính răn đe và phòng ngừa chung, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy trong giai đoạn hiện nay.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tai khoan 5 Điêu 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn , không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đôi vơi bi cao.
[7] Về vật chứng: Đối với 517,87gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định, xét đây là loại ma túy Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL, là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp Ngân sách nhà nước.
Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu XIAOMI, D không sử dụng để liên lạc vào việc mua bán ma túy là tản sản của chị Lù thị S, nên cần trả lại cho chị Lù Thị S.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA thu giữ của Thào A D xét thấy đây là tài sản chung vợ chồng của bị cáo D và chị Lù Thị S. Việc bị cáo sử dụng xe để đi mua bán ma túy, chị S không biết nên cần trả lại cho chị Lù Thị S.
[8] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo: Thào A D phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Thào A D tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 27/9/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01(một) gói vật chứng còn nguyên niêm phong, bên trong gói có tổng khối lượng 517,87 gam Methamphetamine; 01 túi nilon màu đen và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Thu giữ của Thào A D.
2.2.Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen – xám (điện thoại bàn phím), có 02 imei và có 04 số cuối: Imei 1: 1064; imei 2: 1072 kèm 02 sim trong điện thoại, điện thoại đã qua sử dụng. Thu giữ của Thào A D.
2.3. Trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lù Thị S: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI màu hồng (điện thoại cảm ứng), điện thoại đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu HONDA loại xe WAVE RSX màu xám – đỏ, xe có biển kiểm soát 26C-202.72, xe có số khung: RLHJA3837KY005654; số máy JA52E0034936, xe có 01 gương chiếu hậu, không có chìa khóa xe, xe đã qua sử dụng. Thu giữ của Thào A D.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Thào A D.
Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 01/02/2021).
Bản án 53/2021/HS-ST ngày 01/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 53/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về