Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 52/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 165/2020/TLST-HNGĐ ngày 27/02/2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”;

theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2020/QĐ-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Phan Thị A, sinh năm 1982; hộ khẩu thường trú: Ấp A1, xã A2, thị xã 3, tỉnh B, có yêu cầu giải quyết vắng mặt - Bị đơn: Ông Trần Thanh P, sinh năm 1982; hộ khẩu thường trú: Ấp A1, xã A2, thị xã 3, tỉnh B; nơi cư trú hiện tại: Số 15B, ấp A1, xã A2, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/12/2019, nguyên đơn bà Phan Thị A trình bày:

Bà A và ông Trần Thanh P tự nguyện sống chung và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A2, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 70 ngày 22/11/2005.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải nhau. Mỗi lần vợ chồng phát sinh mâu thuẫn thường hay hăm dọa đánh đập bà A khiến bà A luôn sống trong lo sợ. Do mâu thuẫn đã kéo dài, cuộc sống hôn nhân ngột ngạt, bà A và ông P đã sống ly thân với nhau từ năm 2019 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không còn nên bà A yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà A ly hôn với ông Trần Thanh P.

- Về con chung: Quá trình sống chung, ông P và bà A có 02 người con chung tên Trần Bình A4, sinh ngày 25/3/2009 và Trần Cát Khánh A5, sinh ngày 07/4/2017. Sau khi ly hôn, bà A yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung. Do kinh tế của bà A ổn định, đủ điều kiện để lo cho hai con học hành, sinh hoạt nên bà A không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chứng cứ, tài liệu nguyên đơn cung cấp: Bản chứng thực Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu; Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy khai sinh; Bản photo EMS.

Bị đơn ông Trần Thanh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhưng bị đơn vẫn không đến làm việc cũng không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Quá trình đưa vụ án ra xét xử, nguyên đơn bà Phan Thị A có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn với bị đơn ông Trần Thanh P cũng như yêu cầu về con chung, cấp dưỡng nuôi con; bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Bị đơn không chấp hành đúng pháp luật do đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà A và ông P đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bà Phan Thị A và ông Trần Thanh P có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A2, thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 70 ngày 22/11/2005. Nay bà Phan Thị A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Trần Thanh P. Do đó, quan hệ pháp luật trong vụ án này được xác định là “Ly hôn” theo Khoản 1, Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Ông Trần Thanh P hiện cư trú tại địa chỉ số 15B, ấp An Mỹ, xã A2, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương nên theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 35 và Điểm a, Khoản 1, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thụ lý đúng thẩm quyền.

[1.3] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Trần Thanh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng và tham gia phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do nên căn cứ Điểm b, Khoản 2, Điều 227; Khoản 1, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị A và ông Trần Thanh P chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Xét thấy, trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Phan Thị A cho rằng từ năm 2009, bà A và ông P thường xuyên xãy ra mâu thuẫn do vợ chồng không hòa hợp về suy nghĩ và quan điểm sống, mâu thuẫn kéo dài đến năm 2019 thì bà A và ông P sống ly thân, từ đó đến nay hai bên không còn quan hệ tình cảm vợ chồng, không quan tâm đến cuộc sống của nhau. Bên cạnh đó, từ khi bà A nộp đơn ly hôn đến Tòa án nhân dân thành phố Thuận An cho đến nay, ông P có biết việc bà A muốn ly hôn nhưng không có động thái gì nhằm hàn gắn hạnh phúc gia đình. Ông P đã được Tòa án triệu tập nhiều lần để lấy lời khai, hòa giải, tham gia phiên tòa để nhằm mục đích đoàn tụ nhưng vẫn không đến Tòa, thể hiện ý chí ông P không có thiện chí đoàn tụ vợ chồng. Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà A và ông P là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A về việc yêu cầu được ly hôn với ông P.

[2.3] Về con chung: Bà A có yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà A được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 người con chung, Hội đồng xét xử xét thấy: Các cháu Trần Bình A4 và Trần Cát Khánh A5 sống với bà A từ khi mới sinh ra cho đến hiện tại. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tham khảo ý kiến của cháu Trần Bình A4, cháu An xác định muốn được sống chung với mẹ. Xét bà A có công việc và thu nhập ổn định, đủ điều kiện để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất và tinh thần cho các con chung nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét giao con chung cho bà A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn để đảm bảo ổn định sinh hoạt cho các con chung.

[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà A không yêu cầu ông Trần Thanh P cấp dưỡng nuôi con chung. Xét, đây là ý chí tự nguyện của bà A, phù hợp với quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.5] Về tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.6] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật.

[2.7] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1, Điều 28; Điểm a, Khoản 1, Điều 35; Điểm a, Khoản 1, Điều 39; Khoản 3, Điều 144; Điểm b, Khoản 2, Điều 227; Khoản 1, Điều 228; Điều 235; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 9, 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị A đối với bị đơn ông Trần Thanh P về việc ly hôn.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị A được ly hôn với ông Trần Thanh P.

- Về con chung: Bà Phan Thị A được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trần Bình A4, sinh ngày 25/3/2009 và Trần Cát Khánh A5, sinh ngày 07/4/2017.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nuôi con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về cấp dưỡng nuôi con:

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Phan Thị A về việc không yêu cầu ông Trần Thanh P cấp dưỡng nuôi con chung Trần Bình A4 và Trần Cát Khánh A5.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Phan Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp theo Biên lai số 0046220 ngày 26/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo đúng quy định pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:52/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;