TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2020/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 28/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14/9/2020, giữa:
*Nguyên đơn: Chị Lê Thị L, sinh năm 1986 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 23, khu phố L, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh B.
*Bị đơn: Anh Trịnh Ngọc T, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 23, khu phố L, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Lê Thị L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L và anh Trịnh Ngọc T chung sống với nhau một cách tự nguyện vào năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn T, huyện Đ, tỉnh B vào năm 2007.
Trong quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, anh T không lo làm ăn, ham chơi bời, thường hay uống rượu, đánh chửi vợ con và đập phá đồ đạc trong nhà. Điều này làm cho cuộc sống vợ chồng bất hòa, mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Chị L đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh T vẫn không thay đổi. Nay, chị L xác định tình cảm giành cho anh T đã hết nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Trịnh Ngọc T.
Về con chung: Có 01 con chung tên là Trịnh Ngọc H, sinh ngày 27-5-2003. Quá trình giải quyết vụ án, chị L có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa, chị L có yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con từ 2.000.000 đồng xuống 1.000.000 đồng/tháng.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không có yêu cầu nào khác.
Bị đơn anh Trịnh Ngọc T vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có ý kiến như sau:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thâm nhân dân, Thư ký Tòa án và nguyên đơn đã thực hiện đúng và đủ quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị L với anh Trịnh Ngọc T; giao con chung là cháu Trịnh Ngọc H, sinh ngày 27-5-2003 cho chị L trực tiếp, chăm nom nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Trịnh Ngọc T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu H trưởng thành đủ 18 tuổi.
Không xem xét giải quyết về tài sản chung.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của các bên đương sự, kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Về quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn chị Lê Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn, nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con với anh Trịnh Ngọc T và không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung. Vì vậy, đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
2. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Do bị đơn là anh Trịnh Ngọc T cư trú tại tổ 23, khu phố L, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh B, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì đây là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã giao, tống đạt hợp lệ các Thông báo, Quyết định tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn nhưng bị đơn anh Trịnh Ngọc T vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án không có lý do. Xét cần áp dụng Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt anh Trịnh Ngọc T là phù hợp.
3. Yêu cầu của đương sự:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L và anh Trịnh Ngọc T chung sống với nhau tự nguyện vào năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn T, huyện Đ, tỉnh B vào năm 2007 (Theo giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 02/2006). Xét đây là cuộc hôn nhân hợp pháp, tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn cho đến nay. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, anh T không lo làm ăn dẫn, thường hay uống rượu, chửi vợ con, đập phá đồ đạc trong nhà dẫn đến vợ chồng sống không có hạnh phúc. Chị L và anh T không tìm cách giải quyết được những mâu thuẫn phát sinh trong cuộc sống vợ chồng. Chị L xác định tình cảm vợ chồng đã hết nên cương quyết xin ly hôn với anh T. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập anh T nhiều lần để hòa giải, hàn gắn mối quan hệ vợ chồng giữa các bên nhưng anh T không tham gia, chứng tỏ anh T không có thiện chí cùng chị L đoàn tụ gia đình. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng đã phân tích, giải thích cho chị L biết hậu quả của việc ly hôn nhưng chị L vẫn cương quyết xin được ly hôn với anh T. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 tuyên xử cho chị Lê Thị L được ly hôn với anh Trịnh Ngọc T là phù hợp.
[2] Về con chung: có 01 con chung tên là Trịnh Ngọc H , sinh ngày 27-5- 2003. Chị L có yêu cầu được trực tiếp chăm nom nuôi dưỡng con chung. Xét yêu cầu của chị L là có cơ sở được chấp nhận, bởi lẽ cháu Hải còn nhỏ, cần có sự quan tâm chăm sóc của mẹ, chị L có công việc và thu nhập ổn định đủ điều kiện để nuôi con. Mặc khác, quá trình giải quyết vụ án anh T không tham gia giải quyết vụ án, không có ý kiến gì về việc nuôi con, chứng tỏ anh T không có thiện chí nuôi con. Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình giao cháu Hải cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án, chị L yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa, chị L thay đổi mức cấp dưỡng, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét yêu cầu của chị L là có cơ sở, bở lẽ cháu H đang trong độ tuổi phát triển nên cần tiền để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cháu như ăn uống, học hành. Mặc khác, sau khi ly hôn giao cháu Hải cho chị L trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng. Do đó, cần buộc anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu H trưởng thành đủ 18 tuổi là có cơ sở để chấp nhận.
[4] Về tài sản chung và các vấn đề khác: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Ý kiến của đại diện Viên kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm các bên phải nộp theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 9, 14, 51, 53, 54, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Tuyên xử cho chị Lê Thị L được ly hôn với anh Trịnh Ngọc T.
2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Trịnh Ngọc H , sinh ngày 27-5-2003 cho chị Lê Thị L trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng. Anh Trịnh Ngọc T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 10/2020 cho đến khi cháu cháu H trưởng thành đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung và các vấn đề khác: Không xem xét giải quyết do không có yêu cầu.
4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn chị Lê Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004014 ngày 23/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 56/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về